Mộng luân hồi – Bạn là ai? Những người bên cạnh ta đã từng là ai trong kiếp trước?
Người xưa có câu tu trăm năm mới đi chung một chuyến thuyền, tu ngàn năm mới nên duyên vợ chồng. Có thể nói duyên phận của ta với những người xung quanh là không đơn giản, có cao nhân đã từng tiết lộ rằng, người ta khi chuyển sinh là theo từng nhóm từng quần thể trong luân hồi qua lại sẽ kết ân kết oán với nhau rồi tạo thành nghiệp quả ở kiếp hôm nay.
Hôm nay, chúng tôi xin kể cho mọi người một câu chuyện có thật về mộng luân hồi. Hy vọng sau câu chuyện này tất cả chúng ta đều có thể trân quý duyên phận, hóa giải được hiềm khích hận thù đã có.
Vào thời Hoàng đế Đường Đại Tông, đất nước khá thanh bình, Hoàng đế Đại Tông là người rất giỏi chơi đàn đặc biệt là ngũ Huyền Cầm, vì là đệ tử Phật gia nên khi tuyển chọn cung nữ ông muốn xem cảnh giới tư tưởng của họ ra sao nên đã ra đề cho họ chơi nhạc. Dẫu một bản nhạc có hoa lệ đến đâu thì những người mang cảnh giới tư tưởng khác nhau sẽ tấu ra những âm hưởng khác nhau, nghĩ đến đây ông bắt đầu chơi một bản nhạc bằng cây ngũ Huyền Cầm.
Nội tâm của ông hòa tan vào điệu nhạc, đúng là:
“Thanh âm phiêu miểu tự Thiên Lai,
Thiên nhân thải đới phong trung bãi
Hồng Chung pháp giới hiển thần thánh,
Đãng tận phàm trần liên tự khai.
Quốc gia hữu nạn cô ưu tâm,
Sấn thử thời cơ liễu dân tình
Bách tính an lạc liễu tâm nguyện,
Thục tri ngã tâm đồng cầm tại!”
Diễn Nghĩa
Điệu nhạc thanh thoát như đến từ trên thiên thượng,
Dải lụa thiên nhân phất phơ trong không trung,
Tiếng chuông âm vang hiển vẻ thần thánh trong pháp giới,
Hoa sen khai nở sau khi rủ sạch bụi trần.
Ta lo lắng ưu sầu vì vận mệnh của đất nước,
Nhân cơ hội này để liễu giải chuyện dân tình,
Khi bách tính được an vui là ta mãn nguyện,
Ai biết được lòng ta trong điệu nhạc này!”
Đáp lại một tiếng sáo du dương thanh thoát như dòng suối cũng vang lên, ông lại dụng tâm truyền thêm cảm hứng vào điệu nhạc.
“Luân hồi nhân quả thuật vu âm,
Thiện ác quả báo biểu vu cầm,
Phàm phu kính phật Đế vương xuất,
Bách tính kính phật lễ tại tâm!”
Diễn Nghĩa
“Luân hồi nhân quả tựa trôi theo điệu nhạc,
Thiện ác quả báo hiển hiện trong tiến đàn,
Đế Vương kính phật thay cho kẻ phàm phu,
Bách tính kính Phật và giữ lễ trong tâm!”
Lúc ấy, tiếng sáo chuyển thành:
“Thanh tĩnh vô vi tự tại tu,
Bích hải tình thiên nhâm ngã du,
Thân tại thảo đường thô trà phạn,
Lãnh quan thế thượng đa phiền ưu!”
Diễn nghĩa:
“Tu luyện vô vi tự tại trong thanh tĩnh,
Biển trời trong xanh là nơi ta đắm mình,
Sống ở nơi tồi tàn và ăn cơm nhạt,
Lặng lẽ quan sát người đời bao ưu phiền!”
Và rồi tiếng sáo chuyển thành thống thiết bi ai, giống như cơn mưa phùn trong một ngày trời trong sáng. Đại Tông hiểu rằng điệu nhạc này bày tỏ sự lầm than của bách tính trong thời chiến loạn. Ông cũng cảm thấy phảng phất trong ấy mối lưu tâm tới thiên triều và lòng kính trọng Hoàng đế. Sau khi thưởng thức xong điệu nhạc, Đại Tông nhìn đám tú nữ và hỏi: “Ai trong các ngươi vừa tấu sáo vậy?” Một thiếu nữ bèn bước ra. Cô không phải là người đẹp nhất trong số những tú nữ ấy, nhưng trông cô nhu mì và không bị biến sắc khi đứng trước mặt Hoàng đế.
Cô nói: “Hoàng thượng vạn tuế, tiểu nữ làm kinh động đến Bệ hạ, tội bất xá!” Đại Tông thập phần ưng ý; ông quay sang hỏi tả hữu xem tên tuổi cô gái là gì. Tả hữu nói: “Thử nữ (cô ấy) là người Dương Châu, họ Tô, tên Vân Tĩnh, năm nay 18 tuổi.” Hoàng đế truyền chỉ thu nạp cô gái làm thiếp và chịu trách nhiệm cho sinh hoạt hàng ngày của ông.
Sau này, Đại Tông mới biết rằng cô không chỉ giỏi chơi sáo mà còn vô cùng xuất chúng về thư pháp và hội họa. Quan trọng hơn, cô thường kể cho Hoàng đế nghe về nỗi lầm than của dân chúng dưới thời “An Sử chi loạn”. Do vậy, Đại Tông đã miễn giảm thuế, đồng thời cho thu thập tiền và lương thực để trợ giúp bách tính.
Không lâu sau, Đại Tông phong cho cô làm Quý Phi. Ông muốn phế Độc Cô Hoàng hậu và để cô lên thế chỗ nhưng cô không đồng ý. Cô khuyên giải Hoàng đế: “Hoàng hậu chưa phạm phải lỗi lầm gì lớn, nếu Bệ hạ phế truất bà, thiên hạ nhất định sẽ đàm tiếu. Huống hồ Bệ hạ là người đang tu Phật, sao có thể làm chuyện bất thiện như vậy được?” Đại Tông nghe xong vô cùng cảm kích, ông nói: “Trong cõi phàm tục này, ta rất vui khi thấy vẫn còn người có thiện tâm. Người thiện tâm tất sẽ được hưởng phúc sau này.”
Không lâu sau, quân Thổ phồn (người Tây Tạng) và Hồi hột (người Uyghur Tân Cương) xâm nhập Trung Nguyên. Đại Tông phải rời Kinh Thành và lẩn trốn. Độc Cô Hoàng hậu vốn rất ganh ghét với Tô Quý Phi. Bà giả truyền chiếu chỉ của Hoàng đế để mời Tô Quý Phi vào uống rượu cùng. Đến khi Tô Quý Phi đã say rượu, bà mới nói thật: “Trước kia cô là người được Hoàng đế sủng ái nhất và ông ấy không hề để mắt gì tới chúng tôi. Bây giờ ông ấy đang lâm nguy, tất cả là lỗi của cô.” Rồi Độc Cô Hoàng hậu đưa cho cô một chén rượu độc và bảo cô uống nó: “Cái chết của cô sẽ là bảo chứng cho sự tồn vong của giang sơn xã tắc Đại Đường.” Mặc dù đang say nhưng đầu óc của Tô Quý Phi vẫn rất tỉnh táo. Cô nói: “Vì Hoàng hậu muốn thiếp chết, thiếp cũng chẳng còn cách nào. Xin hãy đưa thiếp một chiếc bút.” Rồi cô viết những dòng sau đây:
“Học Phật yếu chân hành,
Trị quốc yếu đức chính,
Giang sơn vị hoàn bích,
Họa khởi hậu cung trung,
Khuyến quân tế tư lượng.
Vạn sự nhân quả trung,
Vật quái Độc Cô hậu,
Phù trực kình thiên trụ,
Tảo nhật diệt tặc khấu.
Tứ hải thừa bình nhật,
Liễu khước trần duyên hậu,
Bỉ thử trọng kiến thời!”
Diễn nghĩa:
“Học Phật phải tu hành chân chính,
Trị quốc chính yếu phải trọng đức,
Giang sơn vẫn chưa được khôi phục,
Tai họa khởi đầu tự hậu cung,
Xin quân vương suy xét kỹ càng.
Vạn sự đều nằm trong nhân quả,
Đừng nên đổ lỗi cho Độc Cô Hoàng hậu,
Hãy vun đắp cột trụ thông thẳng lên trời,
Sớm tiêu diệt quân giặc.
Đến khi bốn biển lại thanh bình,
Sau khi đã dứt hết duyên trần,
Là chúng ta lại được gặp nhau!”
Sau khi viết xong bài thơ này, cô uống hết chén rượu độc. Trước khi lâm chung, cô thỉnh cầu Độc Cô Hoàng hậu hai điều: (1) Xin hãy đưa bức thư này cho Hoàng thượng (2) Hãy vứt xác thiếp xuống một cái giếng cạn. Thiếp đã nợ Hoàng hậu trong một tiền kiếp, bây giờ hai chúng ta không ai nợ ai.
Tức thì Độc Cô Hoàng hậu trông thấy phảng phất mối nhân duyên trong đời trước:
Đó là vào thời nhà Tùy. Đương thời, Tùy Dương Đế vô đạo và quần hùng nổi lên khắp nơi. Ở thành Tô Châu, có một gia đình giàu có họ Lâm sinh được hai chị em sinh đôi. Khi đến tuổi gả chồng cho hai cô, nhiều mai mối đến bàn chuyện hôn sự với gia đình. Nhưng phụ thân hai cô, Lâm viên ngoại không hề ưng ý với chàng rể nào. Sau đó có một bà mối đến giới thiệu với gia đình hai anh em sinh đôi nhà nọ: “mười phần tài hoa, võ nghệ siêu quần, đúng là văn võ song toàn”. Lâm viên ngoại nghe chuyện thì thập phần cao hứng, muốn gả hai tiểu thư cho gia đình ấy.
Ông muốn hai chị em được gả vào cùng một gia đình để họ có thể coi sóc cho nhau. Nhưng đến khi thành hôn xong xuôi cả rồi thì nhà họ Lâm mới phát hiện ra rằng “hai chàng rể” không phải là anh em sinh đôi nào cả. Chỉ có một nam tử, nhưng quả thật văn võ toàn tài. Lâm viên ngoại hối hận vô cùng nhưng vì sự tình đã rồi nên cũng không thể làm gì được nữa. Ông chỉ biết mong rằng hai người con gái sẽ không ganh ghét lẫn nhau vì họ có chung một vị tướng công. Một tháng sau lễ cưới, hai cô gái bắt đầu đánh nhau để tranh giành chồng. Hai năm sau, người em gái giả vờ muốn hàn gắn quan hệ với người chị. Rồi nhân lúc người chị không đề phòng, cô đã cho chị gái mình uống một chén rượu độc. Sau đó cô vứt xác chị gái mình xuống một cái giếng cạn.
Sau khi thấy được cảnh tượng, Độc Cô Hoàng hậu than: “Than ôi, ai có thể thoát khỏi vòng luân hồi nhân quả!”
Sau khi Hoàng đế Đại Tông trở về Kinh Thành, ông mới biết được điều gì đã xảy ra và đọc bài thơ do Tô Quý Phi để lại. Ông vô cùng buồn bã. Tuy nhiên, ông là người học Phật nên đã minh bạch được đạo lý luân hồi nhân quả. Ông gắng sức an bang trị quốc và hàn gắn đất nước sau hàng thập kỷ chiến tranh và thảm họa. Dù vẫn còn chiến loạn và tai họa dưới thời của ông, Đại Tông vẫn được coi là một trong những Hoàng đế toàn tài nhất đời nhà Đường.
Nguồn: Chanhkien