Văn Thiên Tường ‘tuẫn tử’ không thể giúp triều Tống phục quốc, nhưng vì sao lại được hậu thế tán dương?
Văn Thiên Tường là một quan văn, ông ‘tuẫn tử’ vì nước không thể cứu vãn giang sơn Đại Tống, nhưng vì sao lại được hậu thế tán dương, thậm chí những bậc chí sĩ Việt Nam thế kỷ trước đã lấy ‘Chính khí ca’ để khích lệ lòng yêu nước?
Giáo sư Chương Thiên Lượng giảng, trong ‘Tống sử’ có truyện của Văn Thiên Tường, Văn Thiên Tường là Trạng nguyên Tể tướng của Nam Tống, tức vừa làm Tể tướng vừa làm Trạng nguyên. Trong ‘Tống sử’ miêu tả Văn Thiên Tường có cảm giác giống như miêu tả một nữ nhân, nói rằng: Da trắng như ngọc, thân thể khôi ngô.
Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông thích hưởng thụ cuộc sống. Kỳ thực rất nhiều quan viên Lưỡng Tống có cuộc sống rất phẩm vị, viết thơ, vẽ tranh v.v. Trong nhà Văn Thiên Tường nuôi rất nhiều ca nữ, vũ nữ, bởi vì nhà ông có nhiều tiền. Sau này đến khi quân Mông Cổ xâm lược, Văn Thiên Tường bán hết gia tài, gồm cả các ca nữ để xoay sở quân phí, chuẩn bị ‘cần vương’ (勤王: giúp vua).
Khi Văn Thiên Tường khởi binh, ông cùng với Lục Tú Phu và Trương Thế Kiệt được lịch sử xưng là ‘Tống mạt tam kiệt’, chính là những người dốc hết toàn lực để vãn hồi xã tắc.
Văn Thiên Tường từng phụng mệnh để chiến đấu cùng với quân Mông Cổ, nhưng ở địa phương Hải Phong của Quảng Đông, ông đã bị quân Mông Cổ bắt. Khi đó Văn Thiên Tường chuẩn bị không kịp, tiên phong của Trương Hoằng Phạm đột nhiên tập kích rồi bắt ông làm tù binh.
Sau khi bị bắt, quân Nguyên biết Văn Thiên Tường là Trạng nguyên Tể tướng, bèn áp giải đến gặp Trương Hoằng Phạm. Tả hữu bắt Văn Thiên Tường phải quỳ xuống hành lễ, nhưng ông vẫn đứng chứ không quỳ. Trương Hoằng Phạm là người rất quý cái tài của Văn Thiên Tường, thế là lấy lễ tân khách để đối đãi với Văn Thiên Tường.
Trương Hoằng Phạm bảo Văn Thiên Tường viết một phong thư chiêu hàng Trương Thế Kiệt. Văn Thiên Tường nói: ‘Tôi sao có thể viết thư để người ta phản bội phụ mẫu được’, cho nên ông cự tuyệt viết thư.
Trương Hoằng Phạm nhất quyết ép ông phải viết, Văn Thiên Tường đã sao lại bài thơ mình viết, đây là bài ‘Quá Linh Đinh dương’ vô cùng nổi tiếng, trong đó 2 câu cuối viết rằng:
Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử.
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh
Dịch nghĩa:
Nhân sinh tự cổ ai không chết.
Lưu lại lòng son chiếu sử xanh
Trương Hoằng Phạm sau khi xem xong, vô cùng cảm động, biết rằng Văn Thiên Tường không đầu hàng, thế là đem Văn Thiên Tường đến Đại Đô giao cho Hốt Tất Liệt.
Văn Thiên Tường đi đường tuyệt thực 8 ngày, không ăn, nhưng kết quả cũng không chết. Ông còn uống thuốc độc, nhưng cũng không chết, có thể bởi vì ông ấy còn việc cuối cùng chưa làm xong. Như thế Văn Thiên Tường bị áp giải đến Đại Đô.
Sau khi đến Đại Đô, Văn Thiên Tường được ở trong một quán dịch có bài trí rất xa xỉ hào hoa, có đãi ngộ vô cùng tốt, nhưng Văn Thiên Tường không muốn ngủ trên giường, chỉ đứng chờ trời sáng.
Sau này có một người tên là Vương Tích Ông, khi đó Hốt Tất Liệt hỏi Vương Tích Ông rằng: ‘Nam Tống có rất nhiều nhân tài, ta muốn thu thập những nhân tài như vậy để ta dùng. Ai là người có tài nhất?’. Vương Tích Ông nói: ‘Không ai có thể sánh với Văn Thiên Tường’. Do đó Hốt Tất Liệt phái người khuyên hàng Văn Thiên Tường.
Văn Thiên Tường cũng không đầu hàng, khi ấy Vương Tích Ông hỏi: ‘Tương lai ông có kế hoạch gì?’. Văn Thiên Tường nói: ‘Quốc gia đã mất rồi, nếu Hoàng thượng hiện tại có thể đại xá thiên hạ, vậy thì tôi sẽ được tự do. Khi ấy tôi nguyện ý về gia hương làm Đạo sĩ. Nếu tôi còn có ích cho quốc gia, tôi có thể giảng. Nếu Hoàng đế có thể nghe, tôi có thể dùng thân phận khác để đề xuất ý kiến. Nhưng ông muốn tôi đầu hàng thì tôi không đầu hàng’.
Sau này Thừa tướng triều Nguyên là Bột La đích thân xét hỏi Văn Thiên Tường: ‘Ông trước sau đã lập 2 vị Hoàng đế, có thành được công lao nào không?’. Văn Thiên Tường nói: ‘Công lao nào cũng không thành. Tôi chỉ là tận sức kéo dài xã tắc quốc gia, xã tắc có thể kéo dài một ngày, là tôi thành công một ngày’.
Bột La nói: ‘Quốc gia đến bước này đã không còn hy vọng, ông biết rõ không thể thành công, vì sao vẫn nỗ lực?’. Văn Thiên Tường nói: ‘Đây giống như cha mẹ mắc bệnh nan y, ông biết rõ uống thuốc cũng không khỏi, nhưng làm con khẳng định sẽ mua thuốc cho cha mẹ, chỉ là làm con phải tận cái tâm ấy mà thôi. Tôi đối với triều đình cũng mang một tâm tình như thế’.
Điều Văn Thiên Tường nói, trên thực tế Giáo sư Chương đã từng giảng về 2 giá trị quan rất quan trọng của Nho gia, một cái gọi là Nghĩa (義), cái còn lại là Thiên mệnh (天命).
Cái gọi là ‘Nghĩa’ chính là: một sự việc đúng về mặt đạo đức thì bạn chỉ việc làm, hơn nữa phải tận sức làm; còn như kết quả là do Thượng Thiên an bài, đây là ‘Thiên mệnh’. Do đó cách làm của Văn Thiên Tường kỳ thực là một thực tiễn hoàn mỹ của ‘Nghĩa’ và ‘Thiên mệnh’.
Bản thân Văn Thiên Tường kiên trì không đầu hàng, cho nên bị giam vào ngục. Ở trong ngục của Đại Đô, Văn Thiên Tường đã viết bài ‘Chính khí ca’ vô cùng nổi tiếng:
“Ta bị nhốt ở Bắc Đình, trong một căn nhà bằng đất. Nhà rộng tám thước sâu xuống lòng đất bốn tầm (khoảng 2 mét 6), có mỗi một cánh cửa thấp nhỏ, khoảng trống hẹp, ẩm thấp và tối tăm.
Vào ngày hè, các mùi bốc lên nồng nặc, gồm mấy thứ khí hơi nước, khí đất, hơi nóng của mặt trời, hơi lửa, khí của gạo và uế khí, vẫn không bị các bệnh dịch xâm hại đến, và ta sống ở nơi này đã ba năm rồi, không sao cả.
Đó là có sự nuôi dưỡng bên trong mới được như vậy, chắc các ngươi cũng chẳng biết nguồn nuôi dưỡng đó từ đâu? Mạnh Tử nói: “Ta giỏi nuôi dưỡng hạo khí của ta”. Ở đây có bảy khí, ta có một khí, một địch lại bảy ta còn lo gì nữa. Huống hạo khí là chính khí vậy, nên làm bài ‘Chính khí ca’.”
Văn Thiên Tường cho rằng ‘chính khí’ như vậy là nguyên nhân Thiên Địa tồn tại, cho nên trong ‘Chính khí ca’ ông viết:
Địa duy lại nhi lập.
Thiên trụ lại nhi tôn
Tạm dịch:
Khuôn đất nhờ nó lập (đứng).
Trụ Trời nhờ nó cao
Văn Thiên Tường nói rằng, vốn dĩ loại chính khí ‘vô hình vô tướng’, nhưng có thể ninh kết thành Nhật Nguyệt Sơn Hà (Trời trăng sông núi). Phần sau của ‘Chính khí ca’ có một bài thơ rất dài, Văn Thiên Tường dùng những bậc Thánh hiền trong lịch sử để cổ vũ chính mình. Như thế ông mới sống được 3 năm trong ngục.
Sau 3 năm, đến năm 1282, có người muốn khôi phục giang sơn Nam Tống, muốn cứu Thừa tướng Văn Thiên Tường. Khi đó Thừa tướng của triều Nguyên là A Hợp Mã Thị bị thích sát mà chết, cho nên Hốt Tất Liệt thấy rằng, trong tâm mắt của bách tính thì Văn Thiên Tường vẫn còn uy vọng. Thế là Hốt Tất Liệt bảo Văn Thiên Tường lên đại điện hỏi: ‘Hiện nay rốt cuộc ông muốn gì?’. Văn Thiên Tường nói: ‘Tôi chỉ cầu một cái chết’.
Khi đó Hốt Tất Liệt không nỡ, xua tay bảo Văn Thiên Tường lui, nhưng đại thần xung quanh khuyên Hốt Tất Liệt rằng: “Người này nếu lưu lại sẽ là hậu hoạ, sẽ uy hiếp chính quyền của chúng ta“. Hốt Tất Liệt đành đồng ý, hoàn thành tâm nguyện của Văn Thiên Tường là ‘cầu một cái chết’.
Như thế Văn Thiên Tường bị áp giải đến khu hành hình, nay thuộc khu Thái Thị Khẩu, Tuyên Vũ Môn của Bắc Kinh. Trong ‘Tống sử’ viết rằng: Văn Thiên Tường trước khi nhận án tử vẫn thong dong không vội, sau đó ông hướng về nam bái lạy.
Bái lạy xong, ông đứng lên rồi nói: “Ngô sự tất hĩ” (吾事畢矣: Việc tôi xong rồi), sự việc của tôi đã làm xong rồi. Sau đó Văn Thiên Tường thong dong mà hoàn thành cái nghĩa.
Sau này khi vợ và con gái thu thập di vật của Văn Thiên Tường, phát hiện trong y phục ông có một tờ giấy viết rằng:
Khổng nói thành Nhân (Khổng là Khổng Tử).
Mạnh nói thủ Nghĩa (Mạnh là Mạnh Tử).
Chỉ khi Nghĩa trọn.
Là lúc Nhân tới.
Đọc sách Thánh hiền.
Học để làm chi?
Để nay về sau.
Lòng ta không thẹn.
Khi Giáo sư Chương đọc ‘Tống sử – Văn Thiên Tường truyện’, từng nghĩ đến 4 chữ này của Văn Thiên Tường “Ngô sự tất hĩ” (Việc tôi xong rồi), sự việc của tôi đã hoàn thành xong. Rốt cuộc ông đã làm xong sự việc gì? Cái chết của ông có thể khôi phục giang sơn Đại Tống không? Không thể. Cái chết của ông có thể đuổi được quân Nguyên không? Không thể. Con trai của ông tử trận có thể sống lại không? Cũng không thể.
Vậy thì cái chết của ông đối với gia đình, quốc gia, triều đình Đại Tống và giang sơn xã tắc có ý nghĩa gì? Không có ý nghĩa gì. Nhưng cái chết của ông lại có ý nghĩa đối với một dân tộc.
Cái chết của ông lưu lại một loại tinh thần gọi là ‘Chính khí’ (正氣). Do đó, sau hơn 800 năm, chúng ta quay đầu nhìn lại Văn Thiên Tường, chúng ta vẫn bị ‘chính khí’ của ông làm cảm động. Hơn nữa loại tinh thần này thuận theo cái chết của ông mà dung nhập vào máu huyết dân tộc.
Nguyệt Hòa
Theo DKN