10 câu thành ngữ nổi tiếng nói về cuộc đời của vị anh hùng Hàn Tín

da-sua-8

Trong dòng lịch sử chảy dài 5000 năm của vùng đất Thần Châu, không chỉ ghi dấu một nền văn minh rực rỡ, mà còn có rất nhiều nhân vật lịch sử được gắn liền với những điển cố mang tính thời đại. Thành ngữ là bức chân dung cô đọng nhất về những câu chuyện này, nó được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Trong số nhiều nhân vật lịch sử đó, ai là người có nhiều truyện thành ngữ nhất? Sau khi nghiên cứu, người ta thấy rằng đó chính là đại tướng quân Hàn Tín của nhà Hán.

Hàn Tín thường gọi theo tước hiệu là Hoài Âm hầu (淮陰候), ông là một danh tướng của nhà Tây Hán được người đời sau ca ngợi là Binh Tiên cầm quân bách chiến bách thắng, thiên hạ vô địch, thiên cổ không có người thứ hai.

Ông cũng được xem như một chiến lược gia, một tổng chỉ huy và nhà lý luận quân sự đại tài của Trung Quốc.

Trong văn thơ, có khoảng 30 câu chuyện nói về Hàn Tín. Trong phạm vi bài báo này, chúng tôi xin gửi đến quý đọc giả 10 câu thành ngữ liên quan đến nhân vật anh hùng này.

Để có cuộc sống bình an và hút nhiều tài lộc, hãy tham khảo các vật phẩm phong thủy thủ công của Hòn Ngọc nhé!

1. “Khố hạ chi nhục” – Chịu nhục chui háng

Hàn Tín thời niên thiếu rất ham học binh pháp thao lược, lòng ôm chí lớn. Có lần đi trên đường, một người đàn ông làm nghề đồ tể thấy ông liền cản đường và nói khiêu khích: “Ngươi có can đảm thì hãy giết ta đi; nếu không dám giết ta, thì phải chui dưới háng ta”.

da sua 1 5
Hàn Tín chịu nhục chui háng. Nguồn: Trên trang web chính thức của đoàn nghệ thuật Thần Vận Shen Yun.

Hàn Tín nhìn một lúc, rồi cúi xuống chui qua háng hắn.

Sử sách gọi đó là tích truyện “chịu nhục chui háng” nhằm khắc hoạ người quân tử phải chuyên tâm vào làm việc lớn và xem nhẹ những việc nhỏ và cả những kẻ tiểu nhân tầm thường.

2. “Nhất phạn thiên kim” – Bát cơm ngàn vàng

Thưở thiếu thời, hoàn cảnh của Hàn Tín rất khốn khổ. Lúc ấy, ông thường ra ngoại thành câu cá để kiếm ăn qua ngày nhưng vẫn thường xuyên bị đói.

May thay, ở chỗ ông câu thường có một phiếu mẫu (người phụ nữ giặt lụa) rất cảm thương Hàn Tín nên thường giúp đỡ ông, cho ông ăn cơm.

Trong gian nan khốn khó, được ân huệ của một phiếu mẫu cũng nghèo khổ giúp đỡ, ông chỉ có thể đưa hai tay bưng bát cơm nghẹn nuốt và cảm kích nói sau này nhất định sẽ có ngày đền ơn bà. Phiếu mẫu nghe Hàn Tín nói nhưng nét mặt không hề tỏ ra vui mừng, bà giúp người tự nguyện và hoàn toàn không hy vọng gì Hàn Tín sau này báo đáp cho bà.

Sau này, khi Hàn Tín làm Sở vương. Ông nhớ lại ân huệ của phiếu mẫu năm xưa nên bảo người hầu đem rượu thịt đến dọn cho bà ăn, lại còn tặng cho bà một ngàn lượng vàng để đáp tạ.

Câu thành ngữ “nhất phạn thiên kim” (bát cơm ngàn vàng) chính là phát xuất từ câu chuyện này. Ý tứ muốn nói: nhận ân huệ của người thì chớ nên quên, tuy ân huệ mình nhận rất ít, nhưng trong lúc khốn khó thì một chút giúp đỡ cũng là rất quý, cho nên đến lúc chúng ta có đủ năng lực thì nên báo đáp lại cho người thi ân, như thế mới là hợp đạo lý vậy.

3. “Thôi trần xuất tân” 

Khi Hàn Tín phụng sự Lưu Bang , ban đầu Lưu Bang không mấy tín nhiệm nên đã giao cho ông việc quản lý kho lương. Hàn Tín đề xuất phương án quản lý “xuất cũ chiêu tân”, tức là mở hai cửa trước và sau cho vựa lúa, vận chuyển ngũ cốc mới vào qua cửa trước và vận chuyển ngũ cốc cũ ra ngoài qua cửa sau, ngăn không cho ngũ cốc bị hư hỏng trong môi trường nóng ẩm của Tứ Xuyên.

Nhờ đó, kho thóc không còn hiện tượng lên mốc gây xuống cấp và lãng phí, đây chắc chắn là phương án tiên phong trong lịch sử quản lý kho lương thời cổ đại .

4. “Minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương” – Công khai tu sửa sạn đạo, nhưng ngầm vượt qua Trần Thương

Thời Hán Sở tương tranh, từ Tam Tần tiến vào Ba Thục có đường chính lộ duy nhất là sạn đạo. Lưu Bang được Hạng Vũ cấp cho đất Ba Thục với mục đích cô lập ông, tránh trở thành mối họa sau này.

Mưu sĩ của Lưu Bang là Trương Lương đã đốt đường sạn đạo này để binh sĩ không còn mơ tưởng đến ngày về, tạo điều kiện cho Lưu Bang chỉnh đốn quân mã chờ ngày tiến khỏi Ba Thục.

Sau đó, Hàn Tín lại dùng kế dương đông kích tây, ngày đêm ra sức sửa đường sạn đạo nhằm làm quân địch rối trí, nhưng thực chất lại dẫn đại quân theo đường Trần Thương và đánh thắng được một trận lớn.

Từ tích ấy mà trong dân gian lưu truyền câu thành ngữ “minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương”, ý chỉ kế dương đông kích tây Hàn Tín đã dùng để qua mặt Hạng Vũ.

Đó là cách dùng binh đầu tiên của Hàn Tín và cũng là một trong 36 kế lược quân sự của Trung Hoa cổ đại.

5. “Bội thuỷ nhất chiến” – Bày trận tựa sông

Vào năm 205 TCN, sau khi đã chinh phạt nước Ngụy, tướng quân Hàn Tín nhận được lệnh tấn công nước Triệu. Lúc bấy giờ nước Triệu có 20 vạn quân trong khi dưới trướng tướng quân Hàn Tín chỉ có 3 vạn.

Nước Triệu có ải Tỉnh Hình nằm ở phía tây dãy núi Thái Hàng Sơn, lại có dòng sông chắn phía trước. Binh lính đã quá mỏi mệt sau một hành trình dài và quân lương có thể dễ dàng bị quân Triệu cắt đứt. Vậy nên Hàn Tín đã nghĩ ra một kế.

Tướng quân ra lệnh cho một tốp binh sĩ vượt sông và đóng quân đối diện cách ải Tỉnh Hình 30 dặm. Sau đó ông ra lệnh cho binh lính bắt đầu đào hào và lập chiến lũy. Các tướng lĩnh nước Triệu thấy thế đã cười nhạo tướng quân Hàn Tín, bởi vì đây là điều tối kỵ trong binh pháp, một khi thất bại sẽ không có đường lùi với con sông phía sau.

Trước đó ông đã bí mật ra lệnh cho một toán quân khác gồm 2000 người, chờ đợi ngay khi quân Triệu ra khỏi thành thì xâm nhập vào trong để đặt cờ quân Hán lên cổng thành.

Sáng sớm hôm sau, tướng quân Hàn Tín ra lệnh xuất quân thẳng tiến về phía thành Tỉnh Hình. Quân chủ lực của Triệu đã bỏ thành mà đuổi theo quân Hán.

Tướng quân Hàn Tín lệnh cho binh sỹ rút lui về phía các hào sâu và chiến lũy đã làm sẵn. Quân nước Triệu gấp rút đuổi theo khiến quân Hán bị dồn vào đường cùng. Chỉ có chiến đấu hoặc là chết nên tất cả đã chống trả quá kiên cường, làm cho quân Triệu thực sự sợ hãi.

Không muốn mất thêm người vô ích cho đội quân mà họ cho rằng thất bại là kết quả đã định sẵn, tướng nước Triệu đã ra lệnh quay về thành. Vừa về đến nơi, họ kinh hãi thấy tua tủa những lá cờ quân Hán trên cổng thành.

Quân Triệu bàng hoàng tưởng rằng họ bị tấn công từ phía sau. Chính tại khi ấy, tướng quân Hàn Tín phát lệnh tấn công với tất cả những gì mình có, và quân nước Triệu đã đại bại.

Chiến lược này đã được nêu thành thành ngữ “bội thủy nhất chiến”, có nghĩa đen là: quay lưng vào sông mà đánh một trận (thế đánh không có đường lùi, quyết chiến).

6. “Thập diện mai phục” 

Đối với một anh hùng tầm cỡ như Hạng Vũ mà lại có duyên đụng độ Hàn Tín thì thật sự không khác gì sự “Kí sanh Du, hà sanh Lượng”.

Bị mai phục tứ phía, bao vây bốn bề, Hàn Tín đã khiến quân của Hạng Vũ đại bại, Ngu Cơ tự sát và làm nên một điển tích nổi tiếng là “Bá Vương biệt Cơ” sau này.

“Thập diện mai phục” là trận chiến cuối cùng dưới sự chỉ huy tài tình của Hàn Tín. Đồng thời trận chiến ấy cũng tạo cảm hứng để cho ra đời một tác phẩm cùng tên được ví như bản thiên hùng ca, như một trang sử chói lọi về một nhân tài kiệt xuất.

7. “Công cao chấn chủ”

Khi Hàn Tín còn phụng sự cho Lưu Bang, Khoái Thông đã khuyên ông rằng: “Ngài đã cống hiến rất nhiều cho Lưu Bang. Nhưng sau này thành gia lập quốc, hoàng đế chắc chắn sẽ hoài nghi và không trọng dụng ngài. Tốt hơn là ngài nên chia thiên hạ và tự mình làm vua một cõi”.

Nghe vậy nhưng Hàn Tín nghĩ rằng Lưu Bang thường đối xử tốt với mình và bản thân cũng có nhiều công lao, vì vậy ông vẫn giữ trọn một lòng trung thành với Lưu Bang.

Thật không ngờ, lời nói của Khoái Thông năm đó đã trở thành sự thật.

Sau khi Lưu Bang lên ngôi, xưng hiệu là Hán Cao Tổ. Hoàng đế tỏ ra nghi kị Hàn Tín, tước hết binh quyền khiến tình cảnh của ông càng ngày càng thê thảm.

8. “Đa đa ích thiện” –  Càng nhiều càng tốt

Sau khi Hàn Tín bị giáng xuống làm Hoài Âm hầu, Lưu Bang trò chuyện với ông và hỏi về khả năng điều binh của các tướng, Hàn Tín nói rõ tướng nào có thể dẫn bao nhiêu quân. Bỗng nhiên, Hán Cao Tổ hỏi:

– “Vậy ta có thể dẫn bao nhiêu quân?
– Hàn Tín nói: “Bệ hạ có thể mang theo một trăm vạn quân”
– Lưu Bang lại hỏi: “Vậy ngươi có thể mang theo bao nhiêu?”
– Hàn Tín nói: “Càng nhiều càng tốt”
– Lưu bang hỏi: “Càng nhiều càng tốt thì sao lại bị ta bắt ?”
– Hán Tín đáp: “Bệ hạ không có tài cầm quân, nhưng có tài cầm tướng, vì vậy cho nên Tín mới bị bệ hạ bắt”

Hàn Tín nói vậy đã khiến Lưu Bang hết sức lo sợ. Rõ ràng, Hàn Tín có tài cầm quân, nhưng từ câu “càng nhiều càng tốt” cũng có thể thấy Hàn Tín rất khảng khái, dám thẳng thẳn nói rằng hoàng đế cầm quân không bằng mình.

9. “Điểu tận cung tàng” – khi chim đã chết thì người ta vất cung đi một nơi mà không dùng đến nữa

Có một viên tướng bỏ trốn của Hạng Vũ là Chung Ly Muội nhà ở núi Y Lư, vốn chơi thân với Hàn Tín. Sau khi Hạng vương chết, Chung Ly Muội bỏ trốn đến chỗ ông.

Hán Cao Tổ truy lùng hai ái tướng của Hạng Vũ là Chung Ly Muội và Quý Bố. Quý Bố ra hàng nên được trọng dụng, nói với Hán đế về ý định đến chỗ Tín của Chung Ly Muội trước đó trong quân Sở. Hán đế bèn ra lệnh cho Hàn Tín bắt Muội.

Năm 201 TCN, có người đưa thư lên báo Sở vương Hàn Tín làm phản. Hán Cao Đế dùng mưu kế của Trần Bình, giả cách thiên tử đi tuần thú hội họp chư hầu. Ở phương Nam có đất Vân Mộng, Hán Đế bèn sai sứ báo cho chư hầu sẽ họp ở đất Trần, kỳ thực vua Hán muốn bắt Hàn Tín, nhưng ông không biết.

Hán Cao Tổ sắp đến Sở, Hàn Tín lo lắng vì chứa Chung Ly Muội trong nhà. Có người khuyên ông chém Muội để ra mắt nhà vua thì sẽ khỏi tội.

Chung Ly Muội biết rõ tình thế nên tự đâm cổ mà chết. Hàn Tín ôm đầu Muội ra mắt Lưu Bang ở đất Trần. Lưu Bang sai võ sĩ trói ông lại chở ở xe sau. Hàn Tín nói:

– “Đúng như người ta nói: “Thỏ khôn hết thì chó giỏi bị nấu, chim cao hết thì cung tốt bị cất, nước địch bị phá thì mưu thần hết đời”. Thiên hạ đã bình định rồi, ta bị nấu là đáng lắm”.

10. “Thành dã Tiêu Hà, bại dã Tiêu Hà”

Giai đoạn sau này, Hàn Tín rất thận trọng. Ông sợ bị hãm hại nên thường xuyên cáo bệnh từ chối ra ngoài.

Năm 11 đời Hán (năm 196 TCN), Lã Hậu sợ Hàn Tín nội ứng cho giặc ở kinh đô nên muốn trừ khử Hàn Tín. Vừa lúc đó có một bức thư của một người đã bị Hàn Tín kết tội đang giam giữ trong ngục chờ ngày xử chết. Bức thư đã vu cho Hàn Tín tội mưu phản.

Lã Hậu đã lợi dụng Tiêu Hà – người Hàn Tín rất tin tưởng, để bảo Hàn Tín đến cung chúc thọ Lã Hậu.

Khi được Tiêu Hà mời vào cung, Hàn Tín không thể từ chối,ông tin tưởng rằng có Tiêu Hà ở đó nhất định sẽ an toàn nên đã vào cung.

Ngay khi vừa nhập cung, Hàn Tín bị bao vây tứ phía. Lã Hậu đã bắt và xử tử ông trong Trường Lạc Cung, khi ấy Hàn Tín mới 43 tuổi.

Trước đây, khi Hàn Tín không được Lưu Bang trọng dụng nên đã rời đi. Tiêu Hà thấy thế mà không quản gian khổ, đã đuổi theo ông dưới ánh trăng. Nhờ thế mà Tiêu Hà đã đưa ông trở về doanh trại, đồng thời để ông được nắm quyền thống soái quân của Lưu Bang, lập nên biết bao chiến công, đánh đâu thắng đó.

Chính vì thế mà Tiêu Hà và Hàn Tín coi nhau như tri kỉ. Nhưng cái chết của Hàn Tín là vì trao niềm tin nhầm người.

Cổ nhân có câu: “Cao sơn lưu thủy, tri kỉ khó tìm”, đối với người bình thường mà nói thì hai từ “tri kỉ” mang hàm nghĩa tương đối chính diện, là điều mà không phải ai cũng có thể tìm được cho mình trong đời. Tuy nhiên, đối với cuộc đời Hàn Tín, tri kỷ ấy lại vừa vinh vừa hận.

Sau khi Hàn Tín chết, trước mộ ông treo câu đối rằng: “Sinh tử nhất tri kỷ, tồn vong lưỡng phụ nhân”. Tri kỉ của ông là Tiêu Hà nhưng ông thành công nhờ Tiêu Hà và bị hại chết cũng bởi Tiêu Hà.

Hai phụ nhân nắm giữ vận mệnh của Hàn Tín là vị phiếu mẫu năm xưa nuôi ông ăn cơm. Và sau này là Lã Hậu đã bày mưu giết chết ông.

Cuộc đời của Hàn Tín thật sự gói gọn trong câu đối ấy.

Viên Minh biên dịch
Nguồn: Secretchina

Xem thêm
Chia sẻ bài viết: