18 đời Vua Hùng gồm những ai? Truyền thuyết về dòng dõi Tiên Rồng của người Việt và câu chuyện Hùng Vương dựng nước…
Người Việt Nam ta có câu cổ huấn rằng: “Dù ai đi ngược về xuôi – Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba”. Đây là ngày hội truyền thống của dân tộc ta, nhằm tưởng nhớ đến công ơn các Vua Hùng đã có công dựng nước. Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương cũng được coi là ngày quốc lễ của Việt Nam thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của người Việt…
Hằng năm cứ đến ngày 10.3 theo Hoàng lịch, mỗi người dân Việt Nam lại hướng về đất Tổ như một sự tri ân về cội nguồn dân tộc… Nhân sự kiện trọng đại này, chúng tôi xin kính mời quý độc giả cùng tìm hiểu sơ lược về dấu mốc lịch sử các đời Hùng Vương và những giai thoại thiêng liêng xoay quanh chủ đề này…
Hùng Vương là ai? Khái quát lịch sử về các triều đại Vua Hùng…
Vua Hùng hay vẫn còn gọi là Hùng Vương là tên hiệu các vị thủ lĩnh tối cao thuộc nhà nước Văn Lang của người Lạc Việt. Theo truyền thuyết, các vua này là hậu duệ của cha Rồng – Lạc Long Quân và mẹ Tiên – Âu Cơ.
Sử sách chép rằng: Thời của các vua Hùng bắt đầu từ thời xã hội Văn Lang tồn tại. Đứng đầu nước Văn Lang là các thủ lĩnh tối cao, được biết đến với tôn hiệu Hùng Vương. Hùng Vương đồng thời là người chỉ huy quân sự, điều hành chính sự, chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Dưới Hùng Vương có các Lạc tướng, Lạc hầu giúp việc. Cả nước chia thành 15 bộ (đơn vị hành chính lớn) có Lạc tướng trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Dưới nữa là các Bố chính, đứng đầu các làng bản.
Kinh đô của nhà nước Văn Lang được đặt tên là Văn Lang, cũng có sử liệu ghi là Phong Châu, nay thuộc tỉnh Phú Thọ.
Theo “Đại Việt Sử ký toàn thư”, tính từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến hết thời Hùng Vương (năm 258 TCN) kéo dài 2.622 năm. Nhà nước Văn Lang tồn tại đến năm 258 TCN thì bị Thục Phán (tức An Dương Vương) thôn tính. Theo “Thế thứ các triều vua Việt Nam” của nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Khắc Thuần, thì 18 vị vua Hùng là:
- Kinh Dương Vương (涇陽王): 2879 – 2794 TCN (số năm trị vì là ước đoán). Tên húy là Lộc Tục (祿續).
- Hùng Hiền vương (雄賢王), còn được gọi là Lạc Long Quân (駱龍君 hoặc 雒龍君 hoặc 貉龍君): 2793 – 2525 TCN. Huý là Sùng Lãm (崇纜).
- Hùng Lân vương (雄麟王): 2524 – 2253 TCN
- Hùng Diệp vương (雄曄王): 2252 – 1913 TCN
- Hùng Hy vương (雄犧王): 1912 – 1713 TCN (phần bên trái chữ “hy” 犧 là bộ “ngưu” 牛)
- Hùng Huy vương (雄暉王): 1712 – 1632 TCN
- Hùng Chiêu vương (雄昭王): 1631 – 1432 TCN
- Hùng Vĩ vương (雄暐王): 1431 – 1332 TCN
- Hùng Định vương (雄定王): 1331 – 1252 TCN
- Hùng Hi vương (雄曦王): 1251 – 1162 TCN (phần bên trái chữ “hi” 犧 là bộ “nhật” 日 – khác với tên vị vua Hy vương trước).
- Hùng Trinh vương (雄楨王): 1161 – 1055 TCN
- Hùng Vũ vương (雄武王): 1054 – 969 TCN
- Hùng Việt vương (雄越王): 968 – 854 TCN
- Hùng Anh vương (雄英王): 853 – 755 TCN
- Hùng Triêu vương (雄朝王): 754 – 661 TCN
- Hùng Tạo vương (雄造王): 660 – 569 TCN
- Hùng Nghị vương (雄毅王): 568 – 409 TCN
- Hùng Duệ vương (雄睿王): 408 – 258 TCN.
Còn theo như cuốn “Đại Việt sử lược”, bộ sử xưa nhất của nước ta còn giữ được đến nay thì lại chép rằng: “Đến đời Trang Vương nhà Chu (tức năm 696 – 681 TCN) ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút [dây ghi nhớ sự việc]. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương”.
Không rõ tác giả Đại Việt sử lược căn cứ vào đâu để viết lên như vậy, nhưng về con số 18 đời vua, cũng chính “Đại Việt sử lược” là tác phẩm đầu tiên đề cập tới và dường như dữ kiện đó được nhiều tác phẩm sử học, khảo cứu sau này ghi chép theo, thậm chí các tác phẩm ở dạng diễn ca cũng viết:
Xưng Hùng Vương, cha truyền con nối
Mười tám đời một mối xa thư
Cành vàng lá ngọc sởn sơ
Nước xưng một hiệu, năm dư hai nghìn.
(Thiên Nam minh giá).
Lại có câu thơ làm chứng thêm rằng:
Mở đầu Nam Việt có Kinh Dương
Mười tám ngành vua, mười tám chương
Bách Việt sơn hà muôn thuở đó
Đời đời đèn nến nức thơm hương.
Viết về họ Hồng Bàng, “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim có chép:
“Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng Tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục.
Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, phong Lộc Tục là con thứ làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải. Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Công nguyên?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai.
Sau đó, vẫn theo sách trên, Lạc Long Quân phong cho người con trai trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương.
Hùng Vương cai trị nước Văn Lang theo lối cha truyền con nối đến 18 đời, thì bị Thục Phán, từ biên cương phía Bắc đánh bại. Thục Phán lên ngôi, xưng là An Dương Vương, đổi quốc hiệu Văn Lang thành Âu Lạc. Đó là năm 258 trước Công nguyên (TCN). Theo sách sử cũ, các đời vua Hùng bắt đầu từ năm 2879 và kết thúc vào 258 TCN”.
Chuyện Lạc Long Quân diệt trừ yêu quái, cứu dân đất Việt
Chuyện kể rằng, cách đây lâu đời lắm, ở Lĩnh Nam có một thủ lĩnh tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, sức khỏe tuyệt trần, lại có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Một hôm, Kinh Dương Vương đi chơi hồ Ðộng Ðình, gặp Long Nữ là con gái Long Vương, hai người kết thành vợ chồng và ít lâu sau sinh được một con trai, đặt tên là Sùng Lãm. Lớn lên Sùng Lãm rất khỏe, một tay có thể nhấc bổng lên cao tảng đá hai người ôm. Cũng như cha, Sùng Lãm có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn. Khi nối nghiệp cha, chàng lấy hiệu là Lạc Long Quân.
Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết chí đi du ngoạn khắp nơi.
Ðến vùng bờ biển Ðông Nam, Lạc Long Quân gặp một con cá rất lớn. Con cá này đã sống từ lâu đời, mình dài hơn năm mươi trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chửng mười người một lúc. Khi nó bơi thì sóng nổi ngất trời, thuyền bè qua lại đều bị nó nhấn chìm, người trên thuyền đều bị nó nuốt sống. Dân chài rất sợ con quái vật ấy. Họ gọi nó là Ngư tinh. Chỗ ở của Ngư tinh là một cái hang lớn ăn sâu xuống đáy biển, trên hang có một dãy núi đá cao ngăn miền duyên hải ra làm hai vùng.
Lạc Long Quân quyết tâm giết loài yêu quái, trừ hại cho dân, Ngài tiến ra biển, dụ cho Ngư tinh xuất hiện rồi rút gươm chém Ngư tinh làm ba khúc. Khúc đầu hóa thành con chó biển. Lạc Long Quân lấy đá ngăn biển chặn đường giết chết con chó biển, vứt đầu lên một hòn núi, nay gọi hòn núi ấy là Cẩu Ðầu Sơn, khúc mình của Ngư Tinh trôi ra xứ Mạn Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Ðầu Thủy, còn khúc đuôi của Ngư Tinh thì Lạc Long Quân lột lấy da đem phủ lên hòn đảo giữa biển, đảo ấy nay còn mang tên là Bạch Long Vĩ.
Trừ xong nạn Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến Long Biên (Nay thuộc TP. Hà Nội). Ở đây có con cáo chín đuôi sống đến hơn nghìn năm, đã thành tinh. Nó trú trong một hang sâu, dưới chân một hòn núi đá ở phía Tây Long Biên. Con yêu này thường hóa thành người trà trộn trong nhân dân dụ bắt con gái đem về hang hãm hại. Một vùng từ Long Biên đến núi Tản Viên, đâu đâu cũng bị Hồ Tinh hãm hại. Nhân dân hai miền rất lo sợ, nhiều người phải bỏ cả ruộng đồng, nương rẫy, kéo nhau đi nơi khác làm ăn.
Lạc Long Quân vì thương dân, nên bèn một mình một gươm đến thẳng sào huyệt Hồ tinh, tìm cách diệt trừ nó. Khi Lạc Long Quân về đến tới cửa hang, con yêu tinh thấy bóng người, liền xông ra, Lạc Long Quân liền hoá phép làm mưa gió, sấm sét vây chặt lấy con yêu. Hai bên giao chiến luôn ba ngày ba đêm, con yêu dần dần yếu sức, tìm đường tháo chạy, Lạc Long Quân đuổi theo chém đứt đầu nó. Nó hiện nguyên hình là một con cáo khổng lồ chín đuôi. Lạc Long Quân vào hang cứu những người còn sống sót, rồi sai các loài thủy tộc dâng nước sông Cái, xoáy hang cáo thành một vực sâu, người đương thời gọi là đầm Xác Cáo, đời sau mới gọi là Tây Hồ (nay nằm giữa thủ đô Hà Nội).
Thấy dân vùng Long Biên đã được yên ổn làm ăn Lạc Long Quân đi ngược lên vùng rừng núi đến đất Phong Châu (nay thuộc Phú Thọ). Ở vùng này có một cây cổ thụ gọi là cây Chiên đàn, cao hàng nghìn trượng, trước kia cành lá sum suê tươi tốt che kín cả một khoảng đất rộng, nhưng sau nhiều năm, cây khô héo, biến thành yêu tinh, người ta gọi là Mộc Tinh. Con yêu này hung ác và quỷ quyệt lạ thường. Chỗ ở của nó không nhất định, khi thì ở khu rừng này, khi thì ở khu rừng khác. Nó còn luôn luôn thay hình đổi hạng (hinh dang)ẩn nấp khắp nơi, dồn bắt người để ăn thịt. Ði đến đâu cũng nghe thấy tiếng khóc than thảm thiết, Lạc Long Quân quyết ra tay cứu dân diệt trừ loài yêu quái.
Lạc Long quân phải luồn hết rừng này đến rừng kia và qua nhiều ngày gian khổ mới tìm thấy chỗ ở của con yêu. Lạc Long Quân giao chiến với nó trăm ngày đêm, làm cho cây long đá lở, trời đất mịt mù mà không thắng được nó. Cuối cùng Lạc Long Quân phải dùng đến những nhạc cụ như chiêng, trống làm nó khiếp sợ và chạy về phía Tây Nam, sống quanh quất ở vùng đó, người ta gọi là Quỷ Xương Cuồng.
Diệt xong được nạn yêu quái, Lạc Long Quân thấy dân vùng này vẫn còn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ gianh làm ổ nằm bèn dạy cho dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn để ở, phòng thú dữ. Lạc Long Quân còn dạy dân ăn ở cho ra nề nếp cha con, vợ chồng. Dân cảm ơn đức ấy, xây cho Lạc Long Quân một tòa cung điện nguy nga trên một ngọn núi cao. Nhưng Lạc Long Quân không ở, Ngài thường về quê mẹ dưới thủy phủ và dặn dân chúng rằng: “Hễ có tai biến gì thì gọi ta, ta sẽ về ngay!”.
Lạc Long Quân gặp Âu cơ – Dòng dõi Tiên Rồng của người Việt và câu chuyện vua Hùng dựng nước
Lại nói, sau nhiều lần du sơn ngoạn thủy, nhờ Thiên duyên, Lạc Long Quân gặp gỡ nàng Âu Cơ, vốn thuộc dòng dõi Tiên thuộc vùng núi thẳm, hai người kết thành vợ chồng, họ chung sống cùng nhau được ít lâu thì Âu Cơ có mang, sinh ra một cái bọc. Sau bảy ngày cái bọc nở ra một trăm quả trứng. Mỗi trứng nở ra một người con trai. Trăm người con trai đó lớn lên như thổi, tất cả đều khôi ngô, khỏe mạnh và thông minh tuyệt vời.
Hàng chục năm trôi qua, Lạc Long Quân sống đầm ấm bên cạnh đàn con, nhưng lòng vẫn nhớ thủy phủ. Một hôm Lạc Long Quân từ giã Âu Cơ và đàn con, hóa làm một con rồng vụt bay lên mây, bay về biển cả. Âu Cơ và đàn con muốn theo Lạc Long Quân, nhưng không đi được, buồn bã ở lại trên núi. Hết ngày này qua ngày khác, họ mỏi mắt trông chờ mà vẫn biền biệt tăm hơi. Không thấy Lạc Long Quân trở về, nhớ chồng quá, Âu Cơ bảo các con đứng trên ngọn núi cao hướng về biển Ðông lên tiếng gọi: “Cha ơi! Sao không về để mẹ con chúng con sầu khổ thế này”.
Lạc Long Quân trở về tức khắc. Âu Cơ trách chồng:
– Thiếp vốn sinh trưởng ở núi cao, động lớn, ăn ở với chàng sinh được trăm trai, thế mà chàng nỡ lòng bỏ đi, để mặc con thiếp sống bơ vơ khổ não.
Lạc Long Quân nói:
– Ta là loài rồng, nàng là giống Tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, chia nhau trị vì các nơi, kẻ lên núi, người xuống biển, nếu gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, chớ có quên lời.
Hai người từ biệt nhau, trăm người con trai tỏa đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương. Vua Hùng chia ra làm mười năm Bộ, đặt tướng văn, võ gọi là Lạc hầu, Lạc tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương. Ngôi vua đời đời gọi chung một danh hiệu là Hùng Vương.
Lạc Long Quân là người mở mang cõi Lĩnh Nam, đem lại sự yên ổn cho dân. Vị Vua Hùng đời thứ nhất là con trai trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ cũng là người đầu tiên có công dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Do xuất phát từ sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra trăm con là dòng giống của dân tộc Việt, nên người Việt Nam ta vẫn thường nhận mình là dòng dõi Tiên Rồng.
Đường Phong
– Tổng hợp từ nhiều nguồn tư liệu