Người đối mặt với sự sỉ nhục mà vẫn có thể nhẫn, ắt sẽ làm nên đại sự
Câu chuyện về hòa thượng Đại Hưng có thể nhẫn trước tủi nhục
Hòa thượng Đại Hưng tu hành ở núi Cửu Hoa vào cuối thời nhà Thanh, nổi tiếng là người lương thiện, rộng lòng khoan dung và nhân từ, ông suốt đời chịu đựng gian khổ để tu hành. Dưới chân núi Cửu Hoa, có một cô gái của một gia đình đông con, cha mẹ đính ước gả cô cho một gia đình giàu có.
Nhưng 3 năm trước khi lễ kết hôn diễn ra, cô đột nhiên hạ sinh một đứa con. Cha mẹ cô vô cùng tức giận, bức bách hỏi cô thực hư câu chuyện, cô tức tưởi trong nước mắt: “Khi con lên tư viện núi Cửu Hoa dâng hương, bị hòa thượng Đại Hưng làm ô nhục, cuối cùng sinh ra đứa bé này”.
Người cha nghe xong thì vô cùng tức giận, sau đó ông cử người lên núi Cửu Hoa. Sau khi lên núi, ông đã đánh hòa thượng Đại Hưng một trận, trước khi đi, ông còn để đứa trẻ lại chùa. Lúc ấy, hòa thượng Đại Hưng vẫn bình tĩnh, không nửa lời giải thích, nhận đứa trẻ trong tay và ông nói một câu: “Thiện tai! A Di Đà Phật!”
Kể từ đó, hòa thượng Đại Hưng vốn đức cao vọng trọng, bỗng chốc thanh danh lụi bại, đi đến đâu cũng bị người đời sỉ nhục, chế giễu. Ông không hề để trong tâm, hàng ngày đều xuống núi xin sữa cho đứa trẻ. Trước những lời chế giễu, lăng mạ của mọi người, ông cũng không hề động tâm, từ đó chuyên tâm nuôi dạy đứa trẻ thành người tử tế.
Cứ như vậy mà đã ba năm trôi qua, cô gái kết hôn với người đàn ông đã đính ước trước đó. Trong đêm động phòng hoa chúc, người đàn ông hỏi tung tích của đứa trẻ, cô gái khóc lóc kể lại sự việc từ đầu đến cuối. Ngày hôm sau, hai vợ chồng bái kiến cha mẹ chồng và kể cho họ nghe sự thật về đứa trẻ (cũng chính là cháu ruột của họ)! Khi trở về nhà ngoại, hai vợ chồng kể lại cho họ nghe đầu đuôi câu chuyện, người cha của cô lúc này vô cùng sửng sốt và hối hận.
Sau đó, cha mẹ hai bên cùng hai vợ chồng đến núi Cửu Hoa để tạ tội với hòa thượng Đại Hưng. Hòa thượng Đại Hưng chỉ mỉm cười rồi sau đó dẫn đứa bé đến trước mặt họ, đứa bé sà vào lòng người mẹ. Hòa thượng cười hiền từ, và nói: “Thiện tai! A Di Đà Phật!”
Nhẫn là cảnh giới trí huệ tinh thần cao, người làm nên đại sự đều có khả năng Nhẫn tốt. Nhẫn nói thì dễ, nhưng để làm được thì không hề dễ dàng chút nào. Muốn nhẫn được vững vàng thì cần quá trình tu dưỡng, nỗ lực tu hành.
Đại tướng quân Hàn Tín chịu nhục chui háng
Điển cố “Hàn Tín chịu nhục chui háng” cũng là minh chứng lịch sử cho bậc đại trí nhược ngu. Thời ấy, gia cảnh bần cùng, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc nhưng chí hướng của Hàn Tín đặt ở nơi cao xa, lại là người luyện võ nên ông thường đeo bên mình một thanh bảo kiếm.
Trong thành Hoài Âm có một kẻ vô lại là con trai của một người đồ tể, hắn rất ngang ngược, thường hay bắt nạt người khác.
Một lần vì muốn hạ nhục Hàn Tín nên hắn ta đã ở nơi đông người mà chặn đường ông. Kẻ vô lại nói: “Ngươi khoác kiếm làm gì? Ngươi dám sát nhân không? Ngươi dám sát nhân thì chặt đầu của ta xem. Nếu ngươi không dám sát nhân thì ngươi chui háng ta mà đi”.
Đối mặt với sự khiêu khích đột nhiên xảy đến này, Hàn Tín không hề sợ hãi mà nhìn thẳng vào kẻ vô lại thật lâu. Cuối cùng, thần sắc không hề thay đổi, ông thực sự đã chui qua háng của kẻ vô lại mà đi.
Nếu khi ấy Hàn Tín lấy đầu kẻ vô lại bằng thanh bảo kiếm của mình, ông sẽ không phải chịu nỗi nhục chui dưới háng của hắn. Tuy nhiên, ông đã nhẫn chịu nỗi nhục này để tránh lấy đi một mạng người.
So với chí hướng cao xa, lòng ôm hoài bão lớn thì những việc vô cớ trở thành không đáng kể. Người mong muốn làm việc đại sự, ắt phải có tâm đại nhẫn, có tĩnh khí, và Hàn Tín thực sự đã làm được điều này.
Từ cổ chí kim, bậc Đế vương vì đại nhẫn mà được thiên hạ, tướng lĩnh vì đại nhẫn mà được lâu dài, thương nhân vì đại nhẫn mà được giàu sang phú quý, người thường vì đại nhẫn mà có được tri kỷ.
Hàn Tín sau đó trở thành đại tướng quân của Hán Cao Tổ Lưu Bang, giúp ông sáng lập triều Hán. Công lao vĩ đại của Hàn Tín đối với triều Hán đã chứng minh ông là một bậc đại trí.
Đông y cổ đại đã lý giải rất sâu sắc về chữ “nộ” (怒 tức giận). Tức giận đều do khí sinh ra, khí và nộ là hai anh em song sinh. Do phẫn nộ bất bình, mà nổi giận đùng đùng. Nộ khí (tức giận) sẽ khiến “khí huyết hao tổn, nóng nảy, nộ hại gan”, điều này sớm được con người hiểu rõ. Trong cuộc sống hiện thực, cũng không thiếu những người mất mạng vì tức giận, nổi cơn thịnh nộ. Tục ngữ có câu: “Một bát cơm không lấp đầy bao tử, nhưng một chút khẩu khí có thể khiến người ăn no đến bể cả bụng”.
Trong lịch sử có câu chuyện nổi tiếng, Gia Cát Lượng Ba lần trêu tức Chu Du, trong cơn thịnh nộ, Chu Du vì tức giận khiến bản thân phun máu tươi mà chết. Con người giận dữ phần nhiều đều do tham lam và tư tâm, hàng xóm cãi nhau, những người trên đường cãi nhau chỉ vì chút lợi ích, hoặc chịu một chút tổn thất. Nếu có thể dùng một trái tim không màng danh lợi đối đãi với công danh lợi lộc trên thế gian, cơn tức giận tự nhiên biến thành nhỏ bé, cũng sẽ không vì chút được mất cá nhân mà nổi cơn thịnh nộ.
Thiển đàm về chữ Nhẫn
Trong “Luận Ngữ – Vệ Linh Công” có viết: “Chuyện nhỏ không nhẫn được, sẽ làm hỏng việc lớn”.
Tư Mã Thiên từng viết trong “Sử Ký”: “Chuyện nhỏ không nhẫn sẽ làm hỏng đại sự”.
Dân gian cũng có các câu ngạn ngữ như “Nhẫn năng sinh bách phú, hòa khả trí thiên tường”, ý tức là, Nhẫn có thể sinh trăm điều phúc, Hòa có thể dẫn đến nghìn điều tốt lành.
Người ta cũng thường nói “Nhất cần thiên hạ vô nan sự, Bách nhẫn đường trung dưỡng thái hòa”, ý nghĩa rằng, với một đức tính chuyên cần thì trong thiên hạ không có việc gì khó, với một trăm điều nhẫn sẽ tạo nên bầu không khí hòa thuận.
Trương Công Nghệ thời Đường đã viết trong “Bách Nhẫn Ca”: “Người nhân ái nhẫn được cái nhẫn mà người thường khó nhẫn được, bậc trí giả nhẫn được cái nhẫn mà người thường không nhẫn được. Phương pháp của nhẫn là biết suy nghĩ trước sau. Tiêu chuẩn của nhẫn là giả câm vờ điếc. Người biết nhẫn thì có thể đi khắp thiên hạ. Nhẫn có thể kết hàng xóm láng giềng. Nhẫn mà không màng danh lợi có thể dưỡng thần, nhẫn có thể đứng vững trước cơ hàn, nhẫn mà cần cù thì của cải dư thừa, nhẫn được hoang dâm thì vô bệnh tật”.
Khâm sai đại thần triều Thanh là Lâm Tắc Từ, trên công đường cũng từng treo cao lời cảnh tỉnh “kiềm chế tức giận”, điều này cho thấy rằng, người xưa sớm đã nhận thức rõ tính nguy hại của sự tức giận. Lâm Tắc Từ làm quan đến chức Tổng đốc, một lần khi xử lý công vụ, không cách nào khắc chế bản thân, trong cơn thịnh nộ ông đã hất chén trà rơi vỡ. Khi đó ông ngẩng đầu lên, nhìn lời răn của bản thân “kiềm chế tức giận”, biết rằng bệnh cũ tái phát, do đó ông tự tay quét dọn chén trà bị vỡ, không để người hầu làm giúp, để biểu thị sự ăn năn của mình.
Khi chung sống với người khác, bất luận gặp chuyện phải trái đúng sai, hễ không vừa ý liền phát hỏa, đây chính là biểu hiện của người không có hàm dưỡng. Người tính tình vốn nóng nảy nên hành xử giống như Lâm Tắc Từ, phải hiểu rõ bản thân, tăng cường tu dưỡng, chú ý “kiềm chế tức giận”, tâm bình khí hòa, dùng lý lẽ thuyết phục người, không thể dung túng cho ngọn lửa nóng giận trong lòng, nếu không sẽ làm tổn thương người khác và tổn hại chính mình.
Trong cuộc sống hiện đại, có không ít người tính tình thô bạo, động một tí là nổi trận lôi đình. Có người thì vẻ mặt hiền hậu, nhẫn chịu nhường nhịn, thái độ tốt khiêm nhường đối đãi người khác. Tu tâm trước tiên cần tu đức, dưỡng sinh trước tiên cần khắc chế tức giận. Có thể có người nói, hỷ nộ ai lạc là lẽ thường tình của con người, trong thế giới tràn ngập mâu thuẫn, ai chưa từng gặp phải chuyện khiến bản thân tức giận, bực bội, phát cáu kia chứ?
Cần phải là người có năng lực Nhẫn cao, trí huệ lớn mới ẩn giấu được tài năng của bản thân. Người xưa cho rằng “Chân nhân bất lộ tướng, lộ tướng bất chân nhân”, tuy nhiên, con người hiện đại thường làm điều ngược lại, cho rằng phải thể hiện cái tôi mạnh mẽ, khoe khoang năng lực để mưu cầu tiến thân. Kỳ thực là họ đang chạy theo lợi ích, ham hư vinh mà không nghĩ đến lập Đức. Chính vì lẽ đó, khi gặp mâu thuẫn và đứng trước cám dỗ, họ thường không Nhẫn được.
Nhưng mà, tức giận phát cáu vô luận là từ góc độ dưỡng sinh thân thể hay là tu tâm dưỡng tính mà nói, đều là có trăm điều hại mà không một điều lợi nào. Người xưa nói: “Nhẫn một chút gió yên sóng lặng, lùi một bước biển rộng trời cao”. Người nếu có thể khoan dung độ lượng, nhẫn nhịn không tranh luận, tự nhiên tránh được thị phi, vô ưu vô lo, sống một cuộc đời ung dung tự tại.
Sống trên đời, hãy thành tâm cảm ơn những người đã làm tổn thương bạn, bởi vì họ đã giúp bạn tôi luyện ý chí của bản thân; cảm ơn những người làm bạn trượt ngã, bởi vì họ giúp bạn tăng năng lực chịu đựng; cảm ơn những người lừa gạt bạn, bởi vì họ giúp bạn có trí huệ hơn; cảm ơn những người trách mắng bạn, bởi vì họ giúp bạn học được cách nhẫn nại; và hãy cảm ơn tất cả sinh mệnh đã kết duyên với bạn trong cuộc đời này, bởi vì sự tồn tại của họ khiến cuộc sống của bạn trở nên muôn màu muôn vẻ.