Cao Biền, pháp sư trấn yểm phá nước Nam hay vị anh linh cứu dân Việt?
Nhắc đến Cao Biền người ta lại nhớ những câu chuyện nhuốm đầy màu sắc kỳ bí liên quan tới phong thủy và các phép trấn yểm, như “trận đồ bát quái” dưới lòng sông Tô Lịch, từng xôn xao dư luận một thời với truyền kỳ “Thánh vật sông Tô Lịch”.
Phần lớn các câu chuyện liên quan tới việc Cao Biền trấn yểm tập trung vào các yếu tố ma mị, kỳ ảo, vẽ nên hình tượng về một phù thủy giỏi thuật số, thông địa lý, kiêm nhiệm tướng quân, một thầy phép gian xảo ác độc nổi tiếng xứ Trung Hoa muốn trấn yểm long mạch An Nam, để xứ này mãi mãi phải lệ thuộc vào thiền triều.
Tuy nhiên trong chính sử không hề có ghi chép về việc Cao Biền được phái sang An Nam với mục đích trấn yểm. Những thông tin về việc trấn yểm đều chủ yếu đến từ các tác phẩm chí dị, dân gian. Trong chính sử, Cao Biền là một người được phái sang xứ An Nam để ngăn chặn sự xâm lược của quân Nam Chiếu, tức là kẻ thù của ông không phải là dân chúng An Nam mà là giặc Nam Chiếu, mục đích ông sang An Nam là để bảo vệ bờ cõi của người Việt.
Vậy Cao Biền đối với nước Nam được xét là công hay tội?
Dẹp loạn giặc Nam Chiếu
Tân Đường thư – Cao Biền truyện chép: Cao Biền, tự Thiên Lý, là cháu của Nam Bình quận vương Sùng Văn, từ nhỏ đã rất mực lễ nghi nghiêm cẩn, lại ham chuộng văn học, giao du với các nho sĩ, hăng hái đàm luận đạo trị nước, người trong hai quân lại càng khen ngợi. Biền làm chức Tư mã dưới trướng Chu Thúc Minh.
Năm Hàm Thông thứ 5 (863), quân Nam Chiếu (tức nước Đại Lễ bấy giờ) đánh chiếm An Nam (lúc đó nằm dưới sự cai trị của nhà Đường). Năm Hàm Thông thứ 7 (865), Cao Biền phụng mệnh Đường Ý Tông tiến công, thu hồi lại được toàn bộ lãnh thổ An Nam từ tay Nam Chiếu. Vua Đường thăng Cao Biền làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, giao cho cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu. Sau khi nhậm chức, Cao Biền cho bồi đắp thêm các thành trì to và kiên cố hơn trước, từ đó quân Nam Chiếu không còn dám tấn công An Nam nữa.
Chuyện Cao Biền được phong chức dẫn quân đánh Nam Chiếu, nhưng ban đầu ông án binh để tìm hiểu tình hình quân địch, khiến ông bị sàm tấu là hèn nhát không chịu tiến quân, bị triều định gọi về hạch tội. Trên đường về kinh, ông đã làm bài thơ “Nam chinh tự hoài” bày tỏ nỗi lòng:
Vạn lý khu binh quá Hải Môn
Thử sinh kim nhật báo quân ân
Hồi kỳ trực đãi phong yên tĩnh
Bất khiển chinh y hữu lệ ngân
Tạm dịch:
Dẫn quân vạn dặm vượt Hải Môn
Ngày nay cơ hội báo hoàng ân
Trở lại cho đến can qua hết
Chẳng để chiến bào vết lệ rơi
(Hải Môn là cửa ải từ Quảng Châu sang Giao Châu)
Các sử gia trung đại đều khen ngợi công lao Cao Biền đánh bại được quân Nam Chiếu, giải cứu An Nam khỏi cái họa cướp giết tàn bạo.
Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngoại kỷ, Kỷ thuộc Tùy Đường chép:
“Một Lý Trác tham bạo mà dẫn đến mười mấy năm bị tai họa người Man, huống chi lại có kẻ bạo ngược hơn cả Lý Trác nữa. Một Cao Biền đốc suất bộ thuộc mà chém được vài vạn quân giặc mạnh, huống chi lại có người giỏi hơn Cao Biền nữa! Cho nên Trác không thể bảo toàn được mình, mà Cao Biền thì giữ thành xưng vương, người khéo trị nước phải nên cẩn thận việc chọn người”.
“Cao Biền ở đất Giao Nam ta, đánh tan quân Nam Chiếu, cứu vớt nhân dân […] công ấy thực là lớn lắm”. (Theo Đại Việt Sử ký Tiền biên, Ngoại kỷ, Kỷ nội thuộc Tùy Đường)
Góp phần xây dựng xứ An Nam
Sau khi đánh bại quân Nam Chiếu và tiếp quản cai trị xứ An Nam, Cao Biền cho xây dựng nhiều thành quách, khai thông đường xá, trong số đó, tiêu biểu nhất phải kể đến việc cho đắp La Thành:
“Cao Biền giữ phủ xưng vương, đắp La Thành vòng quanh 1.982 trượng lẻ 5 thước, thân thành cao 2 trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, bốn mặt thành đắp các nữ tường nhỏ trên bốn mặt thành cao 5 thước 5 tấc, lầu nhìn giặc 55 sở, cửa ống 6 sở, cừ nước 3 sở, đường bộ 34 sở. Lại đắp con đê vòng quanh dài 2.125 trượng 8 thước; cao 1 trượng 5 thước; chân rộng 2 trượng, cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn gian”. (Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngoại kỷ, Kỷ thuộc Tùy Đường)
“Biền đắp thành An Nam, chu vi ba ngàn bộ, dựng nhà hơn bốn mươi vạn gian. Biền thấy từ Nam Hải đến Giao Châu có đá ngầm ẩn dưới nước thường làm đắm những tàu lớn, bèn cho đục phá đá đi, thuyền bè của dân cư Giao, Quảng đi lại đều được bình an”. (Việt kiệu thư)
Việc lựa chọn vị trí xây dựng La Thành của Cao Biền đã được vua Lý Thái Tổ ngợi khen hết lời trong Chiếu dời đô:
“Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.”
Cao Biền đã cho xây tổng cộng 3 tòa La Thành ở An Nam, Thành Đô và Dương Châu. Dưới sự chỉ đạo của Cao Biền, các công trình này đã có nhiều điểm sáng tạo, khắc phục được những nhược điểm của địa hình. Ví dụ như khi xây dựng La Thành ở Thành Đô, do đất Thục không tốt, Cao Biền đã sử dụng gạch ngói bó bên ngoài để làm chắc tường thành.
Với La Thành tại An Nam, Cao Biền đã khắc phục được nhược điểm đất đai trũng thấp dễ ngập úng, độ ẩm duy trì cao và thường xuyên có mưa lũ. Tại di tích La Thành của An Nam, đã phát hiện được những cừ nước có kết cấu cột gỗ rất giống nhau, vừa để thoát nước, vừa để tận dụng làm các hào phòng thủ. Đây rất có thể chính là nguyên nhân tồn tại những cọc gỗ bị đồn thổi là vật trấn yểm trong cuộc khai quật năm 2001.
La Thành tạo nền móng cho các tòa thành Thăng Long lớn hơn về sau, giúp vùng đất trung tâm của Đồng bằng sông Hồng này giữ được vị trí thắng địa, trở thành thủ đô của nhiều triều đại liên tiếp trong lịch sử Việt Nam.
Cao Biền còn cho xây dựng hai tòa thành nhỏ là thành Nà Lữ và thành Phúc Hòa ở khu vực Cao Bằng để ngăn chặn sự xâm nhập của quân đội Nam Chiếu từ phía Tây Bắc vào An Nam.
Ngoài ra, còn dấu tích về một tòa thành do Cao Biền khởi công tại núi Kim Ngưu (Quế Võ, Bắc Ninh): “Núi Kim Ngưu, thuộc tỉnh Vũ Ninh, có đá sắc đỏ ánh kim, ban đêm phát sáng. Tương truyền Cao Biền tính xây một thành ở nơi này. Đang đào núi, khơi sông, bỗng thấy từ đâu một con trâu vàng chạy qua rồi đứng đó.” (An Nam Chí, Quyển I, Sông và núi)
Không những thế, Cao Biền còn cho sửa sang hệ thống kênh rạch, phục vụ giao thông vận tải:
“Đinh Hợi, [867], (Đường Hàm Thông năm thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, Cao Biền đi tuần thị đến hai châu Ung, Quảng thấy đường biển có nhiều đá ngầm làm đắm thuyền, vận chở không thông, bèn sai bọn Nhiếp trưởng sử Lâm Phúng, Hồ Nam tướng quân Dư Tồn Cổ đem quân bản bộ và thủy thủ hơn nghìn người đến đục đá khai đường, bảo rằng: ‘Đạo Trời giúp người thuận, Thần linh phù kẻ ngay. Nay khai đường biển để giúp sinh dân, nếu mình không theo lòng riêng thì có gì khó. Các đô hộ thời trước không khao thưởng quân sĩ, giữ phép không vững, làm sai lời hứa, trái ước hẹn, mưu lợi riêng, cho nên mọi người đều trễ biếng. Nay ta không như thế, chỉ cốt làm cho xong việc của nhà vua mà thôi’.[…] Kênh bèn đào xong, vì thế gọi là kênh Thiên Uy. (Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngoại kỷ, Kỷ thuộc Tùy Đường)
Cao Biền còn cho đào hồ Kim Ngưu ở huyện Tế Giang (nay là Văn Giang, Hưng Yên). “Hồ Kim Ngưu nằm ở huyện Tế Giang. Trước có con trâu vàng từ tỉnh Vũ Ninh chạy đến đứng ở chỗ này, quan nhà Đường là Cao Biền phái người đến đào đất ở đó, làm thành một cái hồ.” (An Nam chí, Quyển I, Sông và núi)
Các công trình này đều mang mục đích giúp nhà Đường củng cố quân sự tiện cho việc cai trị xứ An Nam đồng thời cũng mang lại rất nhiều lợi ích cho người dân An Nam nên được các sử gia trung đại ca ngợi.
“Việc Cao Biền đào kênh sao mà kỳ dị thế? Đó là việc làm hợp lẽ, cho nên được trời giúp. Trời là lẽ phải. Đất có chỗ hiểm, chỗ bằng, đó là lẽ thường. Sức người có thể vượt hiểm được, đó cũng là lẽ thường. Nếu hiểm mà không vượt được thì trời phải nhờ đến tay người làm gì? Vua Vũ trị thủy, nếu không hợp lẽ thì Trời do đâu mà tác thành được? Đất do đâu mà bằng phẳng được? Công hiệu đến mức rùa sông Lạc hiện điềm lành, thế không phải là Trời giúp ư? Xem như lời của Biền nói: ‘Nay khai đường biển để giúp sinh dân, nếu không theo lòng riêng thì có gì khó’. Lòng thành phát ra từ lời nói, thì lời nói ấy há chẳng là thuận ư? Lòng tinh thành thực cảm thông đến cả vàng đá, huống nữa là Trời? Việc gì Trời đã giúp sức là thuận. Kinh Dịch nói: ‘Giữ điều tín mà nghĩ điều thuận, thì Trời sẽ giúp cho, đều tốt cả, không có điều gì bất lợi’. Thế thì việc sét đánh đá lớn để giúp chẳng có gì là lạ cả.” (Ngô Sĩ Liên bình, Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngoại kỷ, Kỷ thuộc Tùy Đường)
“Cao Biền ở đất Giao Nam ta […] một thời xây đắp La Thành làm vững đô ấp mãi mãi, công ấy thực là lớn lắm. Còn như khai thông đường vận chuyển, đặt nhà trạm sứ, tất cả những việc ấy đều là theo phép công mà làm, không có một chút lợi riêng. Tinh thần chí khí khi ấy có thể cảm kích được quỷ thần trở thành linh ứng. Sét đánh tan đá thực là trời giúp đề biểu dương sự siêng năng của ông. Thời Ngũ Đại, Vương Thẩm Tri ở đất Mân, người buôn bản của Man Di qua lại trên biển bị ngăn trở ở Hoàng Kỳ, một đêm sét đánh mở ra thành cảng. Người Mân quy cho là nhờ đức độ của Thẩm Tri cảm thấu đến trời, nên mới gọi là cảng Cam Đường. Việc của Biền thực giống việc này.” (Ngô Thì Sĩ bình, Đại Việt Sử ký Tiền biên, Ngoại kỷ, Kỷ nội thuộc Tùy Đường)
Như vậy theo chính sử, Cao Biền có công lao to lớn với dân Việt, bởi vậy ông mới được được tôn kính là Cao Vương. Phan Huy Chú từng cảm thán: “Về sau cuối đời Đường có Cao Biền sang cai trị, đánh phá nước Nam Chiếu, đắp thành Đại La, xẻ cảng, khơi ngòi, làm lợi cho một thời. Công nghiệp tốt ấy đời sau hãy còn khen ngợi!”
Những công trình được lưu lại cho thấy Cao Biền là một nhân vật có nhiều công đức với dân An Nam thuở đó. Ông đã đánh bại quân Nam Chiếu, trả lại sự bình an cho vùng này, và trong quãng thời gian cai trị với cương vị Tiết độ sứ, Cao Biền đã cho xây dựng nhiều công trình có tầm vóc quan trọng với cuộc sống của dân chúng. Sử liệu không hề có ghi chép về việc gì xấu xa hay tàn ác của Cao Biền khi cai trị An Nam, ngược lại các sử gia đều không tiếc lời khen ngợi công lao, tôn vinh tài đức của ông. Ông được tôn thờ là Cao Vương, dù ông chưa từng xưng vương mà chỉ làm trọn trách nhiệm của một vị quan cai trị.
Liệu giới tinh hoa xứ An Nam trong suốt lịch sử Trung đại có thể dành thái độ kính trọng như vậy đối với một kẻ sang trấn yểm, để phá huỷ phong thuỷ nước Nam, như các câu chuyện đồn thổi không.
Tôn kính Thần linh, được Thần phù trợ, dân chúng lập đền thờ
Theo sử sách ghi lại Cao Biền còn là một người hết mực tôn kính thần linh, điều này cũng được thể hiện khá rõ trong các hành động cúng dường của Cao Biền đối với các thần bản địa trong thời gian tại chức ở An Nam. Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngoại kỷ, Kỷ nhà Thục chép: “Cao Vương cho sửa lại đền thờ, tạc gỗ làm tượng, gọi là [tượng] Lý hiệu úy. Đề ở xã Thụy Hương huyện Từ Liêm.”
Trong những lời đồn đại, Cao Biền là một kẻ chuyên trấn yểm, dùng tà phép, nhưng thực tế lại cho thấy ông vẫn được tôn thờ tại nhiều nơi khắp xứ này như một vị anh linh.
Làng Phương Nhị ở Hà Nội đến nay vẫn còn thờ Cao Biền như thành hoàng:
“Đình Phương Nhị.
Ngài hiệu là Cao Vương, tự là Thiên Lý thần, tên húy là Cao Biền. Ngài là nhân Thần.[…] Những công việc của Ngài làm, trước sau điều (đều) đã chép ở Đường sử và Việt sử, công lao rất nhiều, ơn trạch rất rộng, nói ra không siết. Nay chỉ lược chép mấy nhời, trong lịch sử sự tích của Ngài mà thôi.
Thừa phụng sao sự tích. Chánh hương hội Nguyễn Châu Tuệ.”
(Thần tích làng Phương Nhị, tổng Ninh Xá, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông năm 1938)
Cách đó không xa, làng Kim Lan thuộc Gia Lâm cũng là một nơi thờ Cao Biền làm thành hoàng và như vị tổ nghề gốm:
“Khi thấy ở Kim Lan, nhà nhà giàu có, ông (Cao Biền) cho quân lập doanh trại để ở, cùng dân canh tác, khuyên dạy dân trồng dâu nuôi tằm, nặn đất đốt nung lò gốm sứ.” (Đông Các Đại học sĩ Nguyễn Bính, Thần tích làng Kim Lan)
“Nhờ có vương mà sau này người trong nước thông thạo địa lý, biết tính toán đất đai […] trong nước có ba bốn trăm xã lập miếu thờ, riêng Bắc Ninh cũng có hơn trăm chỗ.” (Bắc Ninh phong thổ tạp ký, mục Đường Cao Đô hộ Bột Hải Công vương)
Lễ hội Nam Trì tại Hưng Yên được tổ chức vào tháng 3 âm lịch, là lễ hội tế Thần có nguồn gốc từ khoảng thế kỷ thứ II trước Công Nguyên của Nam Trì trang (nay là làng Nam Trì, tỉnh Hưng Yên). Dân gian gọi là Lễ hội Bảo, Lang, Biền. Đây là ba vị Thượng đẳng Phúc thần Dực bảo trung hưng Bản cảnh Thành hoàng Đại vương thờ tại đền Nam Trì, trong đó Biền chính là Tướng quốc Cao Biền.
Thậm chí, cả những vùng xa xôi hơn, không giáp ranh với Hà Nội như Tuyên Quang cũng tồn tại sự thờ cúng Cao Biền. Theo Đại Nam nhất thống chí, trên núi Biền đến giờ vẫn còn đền thờ ông:
“Biền sơn: ở cách lỵ sở phủ Yên Bình 5 dặm, về phía đông. Hai ngọn núi song song nổi cao theo một dãy, trên có đền thờ Cao Vương.” (Đại Nam nhất thống chí , Quyển XXIII, Tỉnh Tuyên Quang, tiểu mục Núi sông)
Một số câu chuyện chí dị cho thấy Cao Biền tỏ ra kính trọng với Thần linh phương Nam và được họ phù trợ:
“Đến lúc Cao Biền dẹp giặc Nam Chiếu, Lý (Ông Trọng) hiển linh cứu trợ, Cao Biền bèn sửa sang lại đền miếu, tạc gỗ làm tượng, gọi là đền Lý Hiệu Úy, nay gần bên sông lớn, thuộc xã Bố Nhi, huyện Từ Liêm, cách phía tây kinh thành khoảng 50 dặm, (Bố Nhi nay là xã Thụy Hương).
(Lĩnh Nam chích quái, Lý Ông Trọng truyện)
Trong các bộ chính sử, thảy đều khắc họa Cao Biền là một người biết lễ nghĩa, có một tấm lòng ngay thẳng, có cái tâm chí công vô tư nên được Thần linh phù trợ:
“Cao Vương nhà Đường [tức Cao Biền] dẹp nước Nam Chiếu, khi đưa quân về qua châu Vũ Ninh, đêm nằm chiêm bao thấy có người lạ tự xưng là Cao Lỗ, nói: “Ngày xưa giúp An Dương Vương, có công đánh lui giặc, bị Lạc hầu gièm pha, phải bỏ đi, sau khi chết, trời thương không có tội gì, ban cho một dải núi sông này, cho làm chức quản lĩnh đô thống tướng quân, làm chủ mọi việc đánh dẹp giặc giã và mùa màng cày cấy. Nay theo minh công đi dẹp yên quân giặc, lại trở về bản bộ, không có lời từ biệt thì không phải lễ […]” (Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngoại kỷ, kỷ nhà Thục).
Những truyện này đều xoay quanh khoảng thời gian Cao Biền dẹp Nam Chiếu. Với sự phù trợ của các thần linh phương Nam, Cao Biền đã giành được chiến thắng và ông cũng đáp lễ họ bằng cách xây dựng các công trình thờ tự, hoặc phổ biến sự thờ cúng của họ.
Như vậy, trái ngược với hình tượng phản diện về một thầy phù thủy xấu xa, giỏi thuật phong thủy, cao tay nghề trấn yểm, chuyên tìm cách phá hoại long mạch của nước ta, trên thực tế, Cao Biền là một anh linh được nhiều nơi tôn thờ và xem trọng. Liệu một kẻ chỉ được biết tới là đến An Nam để trấn yểm, để phá quốc vận của xứ này có thể được tôn thờ ở nhiều nơi và lâu dài như vậy không?
Quế Thư
Tham khảo:
- Đại Việt Sử ký Toàn thư
- Đại Việt Sử ký Tiền biên
- Đại Nam nhất thống chí
- Lĩnh Nam chích quái
- Thiền uyển tập anh
- Việt điện u linh tập
Nguồn: ntdvn (Quế Thư)