Vì sao dân tộc Hoa Hạ cổ đại gọi tộc người Việt cổ là mọi rợ? nó có phải mang ý nghĩa “khinh thường”?
Hai chữ “Nam Man” (南蠻) không mang ý nghĩa tốt đẹp, nó khiến người Việt chúng ta ngày nay cảm thấy khó chịu. Và một câu hỏi được đặt ra: “Vì sao người dân tộc Hoa Hạ cổ đại lại gọi tộc người phía Nam theo cách kém tôn trọng như vậy?”
Con người ở mỗi quốc gia khác nhau đều có ý thức về chủng tộc rất mạnh mẽ. Bởi vậy, nếu ai đó hay một dân tộc nào đó dùng từ ngữ có vẻ xúc phạm đến danh dự dân tộc của chúng ta, dù đúng dù sai, thay vì tiếp nhận tin tức và phân tích, trong vô thức, chúng ta sẽ bài xích nó một cách mạnh mẽ.
Vào thời Chiến quốc và trước đó, người dân tộc Hoa Hạ gọi các tộc người sống vây quanh vùng lãnh thổ Trung Nguyên của họ là Tây Nhung, Nam Man, Đông Di, Bắc Địch với ý nghĩa như sau:
1. Tộc người phía bắc thường hung hăng tấn công xuống bờ cõi Trung Nguyên nên gọi là “địch”
Người Hung Nô phía bắc Trung Nguyên là chủng người rất cao lớn, khoẻ mạnh. Các đời Đại Hãn (vua) đều hiếu chiến, sức mạnh quân sự cũng rất lớn. Họ không chỉ tấn công lãnh thổ người Hoa, các quốc gia phương Tây, cũng không được kiêng nể, quân Hung Nô thậm chí còn khiến quân lính người da trắng khiếp đảm.
Di tích Vạn Lý Trường Thành được Tần Thuỷ Hoàng cho khởi công xây dựng là với mục đích ngăn quân Hung Nô tiến nhập vào lãnh thổ.
Từ Tây Nhung cũng ám chỉ tộc người phía tây Trung Nguyên hiếu chiến, không có phép tắc.
2. Nam Man dịch nghĩa tiếng việt là mọi rợ
Danh từ Nam Man là tên gọi chung người Hoa dành cho tộc người Bách Việt sống ở phía Nam sông Dương Tử (Mân Việt, Đông Việt, U Việt, Điền Việt…). Chữ “man” Hán dịch là ngang ngược, thô thiển, chưa được khai hoá nên không có văn minh. Đối với chữ “di” trong Đông Di thì ý nghĩa cũng tương tự.
Ngược dòng sự kiện lịch sử, lúc bấy giờ, khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất 6 quốc gia Trung Nguyên thì nước Lạc Việt đang là thời trị vì của vua Hùng, cụ thể là An Dương Vương.
Sự khác biệt giữa người Hoa cổ đại và người Việt cổ đại
Vào thời kỳ này, người Hoa Hạ mặc quần áo vải dệt tơ tằm hoặc các dạng sợi khác nhưng tinh tế mịn màng; trong khi đó, đa số người Việt cổ còn đóng khố, vải khố cũng được dệt bằng sợi cây rất thô sơ.
Tộc người Bách Việt sống chủ yếu bằng nghề săn bắt, hái lượm, chăn nuôi gia cầm; do điều kiện địa lý gia súc cũng hạn chế; đặc biệt tộc người Việt gần biển, họ sinh sống bằng nghề đánh bắt cá, khắp mình đều xăm những hình thù kỳ dị tránh sự tấn công của giao long.
Nếu so sánh với người dân tộc Hoa Hạ: ăn bát sứ, uống chung đồng, chân mang giày, đi xe ngựa, sống trong nhà cao cửa rộng, có gian bếp chế biến thực phẩm đa dạng riêng biệt; thì rõ ràng tộc người Việt kém văn minh hơn.
Toàn bộ tộc người Bách Việt không có chữ viết riêng, nên cũng chưa có hệ thống luật pháp cụ thể. Trong sinh hoạt hàng ngày, họ chỉ có làm và ăn, không thường tuân theo lễ nghi chỉnh tề như người Hoa. Các phong tục tập quán tương tự như người ở các bộ lạc thiểu số châu phi hiện nay.
Khi đạo đức con người chưa bị tham vọng của vật chất làm biến dị thì lối sống theo bộ lạc không hẳn là xấu xa. Từ “Man Di” (không có văn minh) cũng phản ánh một sự thật qua góc nhìn của tộc người có nền văn minh lâu đời.
Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận rằng, về lâu dài, khi quần thể người phát triển đông đúc, tài sản dư thừa và có khả năng chi phối con người thì vô phép tắc, không lễ nghĩa chính là mối hoạ lớn. Bởi con người sống không có hệ thống quy phạm đạo đức, họ muốn làm gì liền làm nấy.
Trong quan niệm của người Hoa – tộc người luôn tự hào vì được thừa hưởng nền văn hoá do thần truyền cấp. Họ có cương thường và quy phạm nhân – lễ – nghĩa- trí – tín; tộc người Bách Việt không phân biệt tôn ti, trật tự thì chính là người nguyên thuỷ.
Tầng lớp tri thức người Việt cổ đều học chữ Hán. Họ đọc kinh thi của người Hoa; đồng thời hiểu lễ nghĩa và sống theo quy chuẩn đạo đức Nho gia. Sức ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa đã góp phần xây dựng nền văn minh 4.000 năm của người Việt, đây cũng là một sự thật lịch sử không thể chối bỏ.
Lý do người Việt không có hảo cảm với người Hoa hiện đại
Từ thế kỷ thứ XIX, khi các nền văn hoá đông – tây gần như đã bị giao thoa sâu sắc, con người đứng bơ vơ giữa các quy phạm đạo đức . Ngay cả người Trung Quốc hiện đại, họ cũng không còn sống theo tiêu chuẩn đạo đức trong xã hội cũ.
Toàn thể nhân loại hỗn độn văn hóa, nhưng lại không có một tiêu chuẩn chung để nhận định tốt – xấu; cho nên con người rất khó để phân biệt rõ ràng đâu là điều tốt, đâu là điều xấu.
Có thể nói, nếu chúng ta không tìm hiểu lịch sử phát triển nền văn minh dân tộc và nhân loại thì rất khó để có thể nhận định đúng đắn về các vấn đề xã hội.
Thời đại đã thay đổi, bởi vậy, cách xưng hô “quốc gia trung tâm” và lũ man di mọi rợ vốn không có quan hệ gì đến người Việt hay người Hoa ở thời điểm hiện tại. Hy vọng sau bài viết này, độc giả đã phần nào hiểu được lý do người Hoa cổ đại gọi người Việt cổ đại là mọi rợ.
Minh Nguyệt tổng hợp