Công chúa Diệu Thiện và Quán Thế Âm Bồ Tát có mối quan hệ như thế nào?
Có người nói Công chúa Diệu Thiện là do Quán Thế Âm Bồ Tát chuyển sinh, lại có người nói Công chúa Diệu Thiện thông qua tu luyện gian khổ cuối cùng đắc chính quả trở thành Quán Thế Âm Bồ Tát. Vậy sự thực là thế nào? Công chúa Diệu Thiện là người như thế nào? Đầu tiên chúng ta hãy cùng ngược dòng lịch sử trở về thời kỳ Nam Bắc Triều cách đây 1.500 năm, để tìm hiểu về những dấu tích cũng như thân thế, cuộc đời của Công chúa Diệu Thiện.
Tương truyền, vào thời Nam Bắc triều (420-589 sau Công Nguyên), Diệu Trang Vương đời Bắc Chu có ba người con gái xinh đẹp như hoa như ngọc, trong đó công chúa thứ ba Diệu Thiện được vua cha yêu thương hết mực. Công chúa Diệu Thiện không chỉ xinh đẹp tuyệt trần mà còn có tấm lòng thiện lương, tính cách điềm tĩnh nhẹ nhàng và thông minh siêu phàm.
Khi công chúa đến độ tuổi kết hôn, Diệu Trang Vương đích thân lựa chọn cho nàng một người chồng phù hợp là những anh tài tuấn tú, nhưng công chúa Diệu Thiện một mực chối từ hết lần này đến lần khác. Bởi Diệu Thiện không màng vinh hoa phú quý và hạnh phúc nơi thế gian trần tục, mà chỉ một lòng nhất tâm tu Phật thành Tiên, và mong muốn cứu độ những chúng sinh đang gặp khổ nạn. Bởi vậy, nàng kiên quyết không chịu kết hôn.
Quyết định của công chúa khiến Diệu Trang Vương, một vị vua thô bạo và ngạo mạn vô cùng phẫn nộ. Ông không tin rằng cô con gái bé bỏng vốn sống trong nhung lụa có thể thật sự chịu khổ giữa chốn trần gian. Vì vậy nên cố tình làm khó Diệu Thiện và đưa ra lời thách đố: “Bây giờ đang là tháng Chạp, nếu con có thể trồng hoa tươi nở khắp trên núi, ta sẽ cho phép con tu hành”.
Lúc đó là tháng Chạp, gió lạnh rét thấu xương và tuyết rơi dày đặc, đó cũng là khoảng thời gian người người đều háo hức bận rộn đón năm mới, nhưng Diệu Thiện, người tận tâm tu tập Phật giáo, lại một mình lên núi nơi tuyết phủ trắng xóa, vừa trồng từng cây non vào trong đống tuyết, vừa thành tâm niệm Phật. Và không biết từ lúc nào, tất cả những cây non đã được trồng phủ đầy khắp nơi trên ngọn núi tuyết. Khi nàng đã thấu mệt, quay đầu nhìn lại, mới phát hiện cây nàng trồng ở khắp nơi trên ngọn núi tất cả đang nở rộ những đóa hoa tươi xinh đẹp. Từ đó về sau, người dân quanh vùng gội ngọn núi này là Tháp Hoa Lĩnh và lưu truyền mãi cho tới ngày nay.
Vậy là Công chúa Diệu Thiện đã đạt được ước muốn của mình, nàng rời khỏi hoàng cung và đến tu hành tại chùa Bạch Tước, nằm dưới chân ngọn núi phía đông của chùa “Đại Hương Sơn” tại Diệu Châu, Thiểm Tây. Nàng không hề bước chân ra khỏi cửa, một lòng thành tâm lễ Phật. Tuy nhiên, cũng giống như tất cả những người tu hành chân chính phải trải qua gian khổ, một thánh nữ như Công chúa Diệu Thiện đã bị một số kẻ lưu manh vô lại ác ý hãm hại, trong một thời gian, tin đồn lan truyền khắp bốn phương và sự dơ bẩn đến mức khiến Diệu Trang Vương cảm thấy mất mặt. Vua vô cùng phẫn nộ, và cho rằng tội ác của Diệu Thiện là không thể dung thứ, nên đã hạ lệnh cho người tới thiêu rụi chùa Bạch Tước nơi công chúa tu hành.
Đột nhiên, khói từ chùa Bạch Tước bốc lên, ánh lửa ngút trời, và trong nháy mắt biến thành một đống tro tàn, nhưng lạ thay công chúa Diệu Thiện vẫn đang ngồi xếp bằng tụng kinh niệm Phật bình an vô sự. Cơn phẫn nộ đã làm Diệu Trang Vương mất đi lý trí, ông không hề cảm nhận được sự thần thánh và trang nghiêm của việc tu hành Phật Pháp. Trong lúc tức giận, ông lại hạ lệnh xử tử Diệu Thiện. Thế nhưng vào lúc hành quyết, đao phủ vừa vung tay lên thì cây đao, kiếm và rìu tự gãy, sau đó lại dùng hình thức treo cổ, đúng lúc ấy xuất hiện một con mãnh hổ lao vào nơi pháp trường giải cứu cho công chúa.
Sau khi Diệu Thiện được giải cứu khỏi pháp trường, nàng tới hồ Tĩnh Thủy để gột sạch bụi trần và chỉnh sửa lại xiêm y. Sau này, hồ nước nơi công chúa tẩy trần được đặt tên là hồ Phượng Hoàng, nơi nàng chỉnh sửa xiêm y sau này được xây dựng thành Sơ Trang Lầu.
Diệu Thiện công chúa tiếp tục đi bộ vào trong núi, trên đường nàng gặp các khe suối chắn ngang, Diệu Thiện thầm nghĩ: Giá như dòng suối chảy dưới những tảng đá sẽ thuận tiện cho người đi bộ hơn, vì vậy nàng nhắm mắt tụng kinh, và ngay lập tức trong phạm vi ba dặm ở chân núi Đại Hương Sơn, các khe suối đều chảy ngầm qua những hòn đá, nối tiếp nhau không ngừng.
Khi đến chân núi, bầu trời dần tối đen như mực, rất khó để nhìn thấy đường đi, ông chúa liền tới bên một tảng đá và tự nhủ: “Giá như tảng đá này có thể sáng như ánh trăng để giúp ta soi đường thì tốt biết mấy!” Kết quả là tảng đá này lập tức phát ra một luồng ánh sáng trong trẻo mờ nhạt giúp nàng nhìn thấy đường đi. Ngày nay người ta vẫn gọi tảng đá này là Nguyệt Quang Nham, trong đêm nếu nhìn từ xa, có thể thấy những tia sáng xanh phát ra, tuy nhiên ban ngày thì nó không có gì khác biệt với những hòn đá thông thường.
Cuối cùng công chúa Diệu Thiện tới tu hành trong một hang đá trên Đại Hương Sơn, hạ qua đông đến, năm tháng trôi qua, cuối cùng cũng đạt được quả vị chân chính. Sau khi Diệu Thiện đắc chính quả, Diệu Thiện hiện thân thành Pháp tượng Quán Thế Âm Bồ Tát thần thánh trang nghiêm, thần thông đại hiển cứu độ vô số thiện nam tín nữ, bao gồm cả cha và các chị gái của mình. Những hoàng thân quốc thích cùng người dân nghèo khó đều vì sự tu thành đắc đạo của công chúa mà thành tâm lễ Phật. Sau khi Diệu Thiện viên tịch, cơ thể của nàng vẫn không bị hư mục trong hàng nghìn năm, càng tăng thêm tín tâm cho những tín đồ tu hành. Chùa Đại Hương Sơn ở Diệu Châu trở thành đạo tràng Quán Thế Âm lâu đời nhất và nổi tiếng nhất ở Trung Quốc.
Những người tu hành Phật Pháp đều cho rằng, công chúa Diệu Thiện là do Quán Thế Âm Bồ Tát chuyển thế. Người phải trải qua vô vàn khổ nạn khó khăn ở nhân gian để đắc được quả vị Bồ Tát.
Mục đích của Bồ Tát khi tới thế gian này không chỉ là cứu độ chúng sinh mà còn để lưu lại quá trình tu luyện của mình cho hậu thế. Người hy vọng nhân loại có thể gìn giữ đạo đức, chờ đợi Chuyển Luân Thánh Vương chuyển sinh xuống cứu độ thế gian.
Nếu bạn có cơ hội đến thăm tượng binh mã và ngựa đất nung ở Thiểm Tây, hãy nhớ tới thăm Đại Hương Sơn ở Diệu Châu – đạo tràng của Quán Thế Âm Bồ Tát. Cho dù bạn không tin Thần Phật, nhưng một người con gái vì để cứu vớt khổ nạn của chúng sinh mà quên đi những vinh hoa phú quý nơi thế tục, thật đáng để chúng ta kính ngưỡng…
Kỳ Mai biên dịch
Ngô Lượng – aboluowang