An Dương Vương khinh địch mất nước, Thần Kim Quy đón xuống Long cung
Thần Kim Quy ở lại với An Dương Vương ba năm, rồi từ biệt ra về. Vua cảm tạ nói: “Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc đến quấy rối thì lấy gì mà chống?” (4).
Thần Kim Quy đáp: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, vua có thể tu đức mà kéo dài thời vận, nhà vua có lòng mong muốn thì ta có tiếc chi” (5). Bèn lấy ra một chiếc vuốt rồng đưa cho nhà vua nói rằng: “Đem vật này làm nỏ, nhắm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa” (6). Dứt lời, Thần quay trở về biển Đông, nhà vua đích thân đưa tiễn. Vua liền sai bề tôi là Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt rồng làm lẫy nỏ, gọi là nỏ thần Linh Quang Kim Quá (Vuốt vàng linh thiêng sáng rực).
Về sau Triệu Đà ở phương Bắc cử binh đánh nước Nam. Vua An Dương Vương lấy nỏ thần ra bắn, một lần bắn ra vô số mũi tên, quân Triệu Đà thua lớn, chạy về núi Trâu (tức Trâu Sơn) cầm cự. Triệu Đà liệu không địch nổi nỏ thần bèn xin hòa, sau đó cho con trai là Trọng Thủy sang làm quan Túc Vệ và cầu hôn với con gái của An Dương Vương là Mỵ Châu.
Trọng Thủy khiến Mỵ Châu yêu đương say đắm, rồi tỉ tê dụ dỗ Mỵ Châu cho xem trộm nỏ thần, đồng thời làm cái lẫy nỏ khác để tráo cái vuốt rồng. Việc xong xuôi, lại đặt chuyện rằng phải về bắc thăm cha. Trước khi đi, Trọng Thủy nói rằng: “Tình vợ chồng không thể quên được, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Tôi nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước bất hòa, bắc nam cách biệt, lấy gì làm dấu để tôi tìm được nàng?” (7). Mỵ Châu nói rằng: “Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt ly, chắc là khổ đau khôn xiết, thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ nhổ lông ngỗng trên áo rắc xuống ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau” (8).
Thế rồi, Trọng Thủy mang lẫy nỏ thần về nước. Triệu Đà được lẫy nỏ cả mừng, liền đem quân sang đánh nước Nam lần nữa. Vua An Dương Vương ỷ mình có nỏ thần, không thèm phòng ngừa, thấy giặc đến vẫn điềm nhiên đánh cờ, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần hay sao?” (9). Đến lúc giặc sát chân thành, An Dương Vương đem nỏ thần ra bắn thì không còn hiệu nghiệm nữa, nhìn lại thấy vuốt rồng đã bị đánh tráo. An Dương Vương thua chạy, cho Mỵ Châu ngồi sau ngựa rồi chạy về phương Nam.
Mỵ Châu ngồi sau bứt lông ngỗng trên áo rải xuống, Trọng Thủy cứ theo dấu ấy mà tìm. Vua chạy tới bờ bể, đường cùng, bèn than rằng: “Trời hại ta ư, sứ Thanh Giang đâu, mau mau lại cứu ta” (10). Rùa vàng hiện lên mặt nước, hét lớn: “Kẻ ngồi sau nhà vua chính là giặc đó!”.
Vua bèn tuốt gươm ra để chém chết Mỵ Châu. Mỵ Châu quỳ xuống khóc lạy xin cha tha thứ và mong được chết để chuộc tội. Nàng ngẩng mặt lên trời khấn rằng: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành hạt bụi. Nếu một lòng trung hiếu, bị người lừa dối thì chết đi biến thành châu ngọc để tẩy sạch mối nhục thù” (11).
Vua chém Mỵ Châu, rồi cầm sừng tê xuống nước, Thần Kim Quy rẽ nước đưa vua xuống biển.
Long quân cho mượn gươm thần dựng nước và sự tích Hồ Hoàn Kiếm
Lần cuối cùng Lạc Long Quân hiển linh là thời đại An Dương Vương, vẫn trong hình dáng một cụ già. Kể từ sau lần ấy, ngài không bao giờ xuất hiện nữa. Nhưng Thanh Giang sứ giả, tức Thần Kim Quy, vẫn thay mặt ngài để bảo hộ nước Nam khi cần.
Đó là thời kỳ nhà Minh đô hộ nước Nam.
Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở vùng Lam Sơn, Thanh Hóa để chống giặc Minh. Buổi đầu ta yếu giặc mạnh, nên Lê Lợi nhiều lần thất bại.
Thấy vậy, Đức Long Quân quyết định cho Lê Lợi mượn gươm thần.
Sách “Lam Sơn thực lục” của Nguyễn Trãi có chép lại việc này. Chép rằng Lê Thận là một ngư dân có chơi thân với Lê Lợi. Một đêm, Thận đánh cá, khi kéo lưới lên, thay vì cá trong lưới thì lại là một thanh sắt. Thận bèn vứt thanh sắt đi và kéo lưới ở một chỗ khác. Nhưng hai lần sau đều chỉ kéo được thanh sắt ấy. Nhìn lại hóa ra là một lưỡi gươm đã han rỉ. Lê Thận bèn đem về nhà, để ở một góc rồi cũng quên luôn.
Một hôm, Lê Lợi đến chơi nhà Lê Thận. Bữa ấy, lưỡi gươm sắt bỗng sáng rực một góc nhà. Cả hai lấy làm lạ, Thận kể lại chuyện, Lê Lợi bèn xem kỹ thấy trên lưỡi gươm có chữ “Thuận Thiên” cùng với chữ “Lợi”, nghĩ rằng ắt hẳn vật này cùng với mình có mối uyên nguyên bèn xin lại. Lê Thận đồng ý.
Bữa ấy bị quân Minh truy đuổi, Lê Lợi và các tướng lạc nhau. Lúc đi qua một khu rừng, Lê Lợi bỗng thấy một ánh sáng lạ trên ngọn cây đa, bèn trèo lên lấy xuống, té ra là một cái chuôi gươm nạm ngọc. Đem chuôi gươm về lắp với lưỡi gươm thấy vừa như in. Lê Lợi cho người đem mài lưỡi gươm sáng bóng, thấy gươm vô cùng cứng chắc và sắc bén.
Kể từ khi có thanh gươm, Lê Lợi đánh đâu thắng đấy, cuối cùng đã quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước Nam. Lê Lợi lên ngôi vua, lập ra nhà Hậu Lê.
Một hôm, Lê Lợi, lúc này là đức vua Lê Thái Tổ, cưỡi thuyền rồng dạo chơi trên hồ Tả Vọng ở kinh thành Thăng Long. Hồ này là một đoạn phân lưu của sông Nhị Hà (sông Hồng). Khi ra đến giữa hồ bỗng thấy nổi sóng lớn, rồi một con rùa mai vàng cực lớn trồi lên mặt nước nói:
“Bệ hạ mau trả lại gươm thần cho đức Long Quân”.
Bỗng nhiên, thanh gươm Thuận Thiên đeo bên sườn vua lay động rồi tự tuột ra khỏi bao, bay thẳng đến chỗ rùa vàng. Rùa vàng há miệng ngậm lấy thanh gươm, gật đầu chào vua, rồi lặn xuống đáy hồ và đi đâu không biết.
Hồ này vì thế được đổi tên thành Hồ Hoàn Kiếm hay Hồ Gươm.
Thần Kim Quy giờ này ở đâu?
Kể từ sau lần nhận gươm ấy, không còn thấy Thần Kim Quy xuất hiện nữa, nhưng vẫn thấy có giống rùa lớn ở Hồ Hoàn Kiếm. Vào thế kỷ 20, thống kê được cả thảy 4 cá thể rùa, cá thể rùa cuối cùng của Hồ Hoàn Kiếm đã chết vào ngày 19 tháng 1 năm 2016.
Rùa Hồ Gươm đã là đề tài của một số tác phẩm văn học Việt Nam vào thế kỷ 20, trong đó có truyện Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan và Rùa Hồ Gươm của Nguyễn Dậu (Trương Mẫn Song).
Tuy vậy, chúng chẳng phải là Thần vật, chỉ là những con ba ba loại lớn, loài giải hay rùa da trơn. Có thể chúng chỉ là những con cháu bình thường của Thần Kim Quy, cũng như những người Việt chúng ta ngày nay là con cháu của đức Lạc Long Quân hiển thánh.
Và có thể giờ này, ở một nơi dưới thủy phủ, đức Lạc Long Quân và Thần Kim Quy vẫn đang dõi theo vận mệnh nước Nam để bảo hộ. Nhưng vào một thời đại mà những Thần tích đã trở nên huyền sử và con người chỉ tin vào những gì tai nghe mắt thấy, điều trân quý nhất và có sức lay động lại chính là đức tin vào truyền thống tốt đẹp và những giá trị của tiền nhân. Có lẽ các vị vẫn đang chờ những tiếng gọi từ nơi sâu thẳm thiêng liêng của tâm hồn người Việt:
“Cha ơi! Sao không về cứu chúng con?”
Tài liệu tham khảo:
Loạt bài có tham khảo những tài liệu văn sử có giá trị của nước Nam như: “Lĩnh Nam chích quái”, “Việt điện U Linh”, “Thiền uyển tập anh”, “Truyền kỳ mạn lục”, “Việt sử tiêu án”, “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Khâm định Việt sử Thông giám cương mục”… và cả sử Trung Hoa trong cuốn “Lịch sử Việt Nam qua chính sử Trung Hoa” của học giả Cao Tự Thanh, sử Việt từ góc nhìn Trung Hoa trong “An Nam chí lược” của Lê Tắc… và cả trang Wikipedia.
(1),… (11): Trích sách “Lĩnh Nam Chích Quái” của Trần Thế Pháp.
Nguyên Phong – ntdvn