Linh đồng chuyển thế duy nhất không phải người Tây Tạng, có thể thấy trước tương lai và nhớ lại tiền kiếp
Phật sống ở Tây Tạng sau khi viên tịch, các Lạt ma sẽ tìm linh đồng chuyển sinh, chính là ví dụ mạnh mẽ nhất về luân hồi chuyển thế.
Từ xa xưa tới nay vẫn luôn có thuyết về luân hồi chuyển thế. Ví dụ, pháp sư Huyền Trang thời nhà Đường đi Tây Thiên thỉnh kinh, chính là hóa thân của Kim Thiền Tử, đệ tử thứ hai trước đây của Phật Như Lai Tây Thiên. Phật sống Tế Công được lưu truyền trong dân gian, tương truyền cũng là chuyển sinh của La Hán Hàng Long. Những trường hợp về chuyển sinh trong chính sử, và các tài liệu lịch sử khác nhau của các triều đại trong quá khứ không còn xa lạ. Phật sống ở Tây Tạng sau khi viên tịch, các Lạt ma sẽ tìm linh đồng chuyển sinh, chính là ví dụ mạnh mẽ nhất.
Trong “Tử bất ngữ” ghi lại rằng, sau cái chết của Lạt ma Vương Mô Lặc Cô của Tây Tạng, các đệ tử của ông đã thông qua chiêm bốc biết được rằng, ông sinh ra ở một nơi nào đó ở Duy Tây. Vào năm thứ tám của triều đại Càn Long (1743), các Lạt ma đã đi đem những đồ dùng mà Phật sống đã sử dụng trong cuộc đời của ngài để đi tìm linh đồng chuyển sinh. Nơi họ sắp đến, có một cậu con trai của thủ lĩnh tộc Nạp Tây tên là Đạt Cơ, năm nay bảy tuổi.
Một ngày nọ, Đạt Cơ đột nhiên chỉ vào chú gà con và hỏi mẹ mình: “Liệu con gà con có luôn dựa dẫm vào con gà mẹ không?”.
Người mẹ nói: “Con gà con cuối cùng sẽ rời xa con gà mẹ”.
Đạt Cơ lại hỏi: “Con trai có giống con gà con của mẹ không?”.
Một lúc sau, cậu nói với cha mẹ mình: “Hiện đang có những người Tây Tạng đang đến đây để nghênh đón vị tiểu Phật sống, làm sao có thể khẩn khoản mời họ ở lại?”
Nghe vậy, cha mẹ nghĩ cậu bé nói lung tung, nên đã không lắng nghe cậu nữa.
Đạt Cơ ra sức để thuyết phục cha mình ra ngoài cửa xem xét. Quả thực có mấy chục vị Lạt ma, không đợi mời đã đi thẳng vào trong nhà cậu. Khi Đạt Cơ nhìn thấy họ đến, cậu ngồi xếp bằng trên mặt đất và niệm câu chú ngữ trong thời gian rất lâu. Các Lạt ma lấy ra một số đồ vật, có một số đồ vật giống nhau, trong số đó có lẫn những món đồ như bát, chuỗi tràng hạt và bản chép tay quyển “Tâm Kinh” mà Lạt ma Vương Mô Lặc Cô đã sử dụng khi còn sống. Họ đề nghị Đạt Cơ xem kỹ và phân biệt.
Đạt Cơ đã chọn những món đồ cũ mà Lạt ma Vương Mô Lặc Cô đã từng dùng. Cậu lấy chuỗi hạt đeo lên, tay cầm một cái bát, mở quyển kinh sách và cười lớn. Các vị Lạt Ma nhanh chóng bỏ mũ xuống, cúi đầu khấu bái hành lễ với Đạt Cơ. Cậu đặt chiếc bát trên tay xuống, đứng lên cầm cuốn kinh sách và đưa tay chạm vào đỉnh đầu của mỗi vị Lạt ma. Ngay sau đó, một vị Lạt ma đã mang một bộ áo choàng và mũ của các nhà sư đưa lên và Đạt Cơ tự mình mặc chúng lên người. Sau đó, các Lạt ma xếp chồng lên nhau hàng chục tấm nệm ngồi bằng gấm, đặt chúng ở giữa phòng, và ngồi xuống xung quanh Đạt Cơ.
Cha của Đạt Cơ có phần hơi lúng túng, vì vậy các Lạt Ma đã tặng ông 500 lạng bạc, hàng chục tấm lụa màu và nỉ, cầu chúc ông sống lâu trường thọ. Sau đó, họ nói với cha của Đạt Cơ: “Đây là Phật sống chủ tu viện của chúng tôi, và chúng tôi sẽ đón cậu ấy trở lại Tây Tạng”.
Cha của Đạt Cơ nói rằng cậu là con trai độc nhất và không đồng ý cho họ đưa cậu đi.
Đạt Cơ nói với cha: “Cha đừng lo lắng, vào ngày này tháng này năm sau, cha và mẹ sẽ hạ sinh ra một người con trai để kế thừa gia nghiệp của tổ tiên. Con là một vị Phật sống chuyển sinh, và con không thể ở lại đây”. Cha Đạt Cơ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đồng ý, và ông cũng khấu bái hành lễ với Đạt Cơ.
Các vị Lạt ma vây quanh Đạt cơ và họ đến chùa Ma Động, sau khi hay tin, hàng trăm ngàn người dân Nạp Tây từ xa gần đã đến chùa để dâng hương, quy y cúng bái, quyên góp tiền bạc, lễ vật vô số không thể đếm hết. Sau ba ngày lưu trú, họ rời đi về Tây Tạng.
Vào năm thứ hai, bố mẹ Đạt Cơ quả nhiên sinh thêm một cậu con trai vào đúng ngày Đạt Cơ nói.
Trong “Di tục ký” ghi lại rằng, lãnh tụ bộ lạc Thổ Mặc Đặc Mông Cổ là Yêm Đáp Hãn (thế hệ đầu tiên của Minh Thuận Nghĩa vương) đã từng mời Đạt Lai Lạt Ma thứ ba, Sách Nam Gia Thố (Sonam Gayaso) đến Thanh Hải.
Sau khi chào đón Đức Đạt Lai Lạt Ma (khoảng năm Vạn Lịch thứ sáu triều đại nhà Minh, năm 1578 sau Công Nguyên), Yêm Đáp Hãn đã vô cùng cung kính và tiếp đón ông rất chu đáo. Sách Nam Gia Thố thường chỉ vào nơi mà Tùng Mộc Nhi Thai Cát – cháu trai của Yêm Đáp Hán sau này cư trú và nói: “Vài năm sau sẽ có một vị Phật ở đây”.
Sau đó , vào năm Vạn Lịch thứ mười sáu (1588), Sách Nam Gia Thố đến Bắc Kinh theo lời mời của Minh Thần Tông, và qua đời tại Mông Cổ trên đường đến Bắc Kinh. Chưa đầy một năm sau, vợ của Tùng Mộc Nhi Thai Cát mang thai và còn nghe thấy có âm thanh trong bụng mình. Tất cả các tăng nhân đều nói: “Chắc hẳn sẽ sinh hạ một vị Phật sống”.
Sau khi đứa trẻ này được sinh ra, nó đã thực sự nói rằng: “Tôi cũng từng là Đạt Lai Lạt Ma”.
Các tăng nhân nói: “Đây thực sự là sự hồi sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma trước đây”.
Sau đó, cha của Tùng Mộc Nhi Thai Cát (con trai cả của Yêm Đáp Hãn là Khất Khánh Cáp, thế hệ thứ hai của Minh Thuận Nghĩa vương) mang con ngựa của Đức Đạt Lai Lạt Ma từng cưỡi trước kia, chuỗi tràng hạt và một cuốn sách kinh, đứa trẻ chỉ vào con ngựa và nói: “Nó cũng là con ngựa của tôi”.
Từ trong hàng loạt các món đồ, đứa trẻ chỉ lấy ra chuỗi tràng hạt và cuốn kinh sách, rồi nói: “Đây là những đồ dùng trước đây của tôi”.
Đứa trẻ thường nói tiếng Tây Tạng, chỉ có các tăng nhân mới hiểu được. Khi mới ba bốn tuổi, cậu bé đã có thể nhìn thấy trước những hoạ phúc của con người, và rất hiệu nghiệm. Sau khi mọi người biết chuyện, có những người từ hàng ngàn dặm mang theo lương thực đi bộ tới gặp cậu bé và còn gọi cậu là “tiểu Phật sống”.
Cuối cùng, sau khi viếng thăm chùa Cam Đan, chùa Triết Bạng và chùa Sắc Lạp ở Tây Tạng, chắt trai của Yêm Đáp Hãn đã được xác nhận là linh đồng chuyển thế Đạt Lai Lạt Ma. Vào năm Vạn Lịch thứ 30 của Hoàng đế Minh Thần Tông (1602), ba ngôi chùa lớn đã cử người nghênh đón ông đến Tây Tạng, đó là Đạt Lai Lạt Ma đời thứ tư Vân Đan Gia Thố (Yonten Gyatso). Ông cũng là Đạt Lai Lạt Ma duy nhất không phải tộc người Tây Tạng.
Nguồn: ntdvn