Tế Công điên mà không khùng, ăn thịt uống rượu mà trong tâm là một dải “chân không”
Hòa thượng Tế Công trở thành một huyền thoại trong văn hóa dân gian, với hình ảnh quần áo cũ rách, đầu đội mũ có thêu chữ Phật (佛), hành động kỳ quặc, điên điên khùng khùng, đặc biệt nổi tiếng với những hành động trái với giới luật Phật giáo như ăn thịt, uống rượu, nên ông còn có biệt hiệu “Hòa thượng Tế điên”.
Truyền thuyết kể lại rằng lúc mẹ sư lâm bồn, ánh hồng quang bao trùm nhà, khắp nhà có mùi thơm lạ xộc mũi. Tế Điên Hòa Thượng sinh ra có gương mặt khôi ngô tuấn tú, ngũ quan đoan chánh, tướng mạo thanh tú bất phàm, chỉ có điều là cứ khóc mãi chẳng ngưng, khóc mãi cho đến 3 hôm, lão phương trượng của chùa Quốc Thanh đến chúc mừng, vừa mới nhìn thấy Hoà thượng thì bèn lập tức ngừng khóc, nhếch mép cười rồi.
Tế Điên lúc 7 tuổi thì chẳng muốn nói chẳng muốn cười, chẳng có tụ họp chơi đùa với những đứa con nít cùng thôn làng. Cha của cậu mời đến một vị lão tú tài là ông Đỗ Quần Anh dạy cho cậu học hành đọc sách ngay tại nhà. Cậu có trí nhớ rất tốt, hễ nhìn qua rồi thì không quên, tốc độ đọc hiểu rất nhanh, năm 14 tuổi thì thi đậu Tú tài, nào ngờ đâu cha bệnh qua đời.
Bẩm tánh của Tế Điên yêu thích kinh điển, đến lúc 18 tuổi thì mẹ ruột cũng bị bệnh mà qua đời. Sau khi thọ tang báo hiếu cho cha mẹ xong, ông thấy rõ cuộc sống vô thường bèn lập chí xuất gia tu hành, đem những việc trong nhà, tài sản giao phó lại cho Vương viên ngoại.
Tế Điên lúc 7 tuổi thì chẳng muốn nói chẳng muốn cười, chẳng có tụ họp chơi đùa với những đứa con nít cùng thôn làng. Cha của cậu mời đến một vị lão tú tài là ông Đỗ Quần Anh dạy cho cậu học hành đọc sách ngay tại nhà.
Cậu có trí nhớ rất tốt, hễ nhìn qua rồi thì không quên, tốc độ đọc hiểu rất nhanh, năm 14 tuổi thì thi đậu Tú tài, nào ngờ đâu cha bệnh qua đời. Bẩm tánh của Tu Duyên yêu thích kinh điển, đến lúc 18 tuổi thì mẹ ruột cũng bị bệnh mà qua đời.
Sau khi thọ tang báo hiếu cho cha mẹ xong, sư thấy rõ vô thường bèn lập chí xuất gia tu hành, đem những việc trong nhà, tài sản giao phó lại cho Vương viên ngoại.
Sau đó, ông đến Hàng Châu và xuất gia, thọ giới tại chùa Linh Ẩn và được ban pháp danh là Đạo Tế. Tại đây ông đã sớm đạt đến “bán khai ngộ” xuất hiện các loại thần thông, ông có thể ném từng khúc gỗ từng trong giếng lên rất nhẹ nhàng.
Khi thấy một tiểu hòa thượng lại có thể sớm khai ngộ như vậy, khiến trụ trì chùa Linh Ẩn đố kỵ không chịu, cho rằng Tế Công bị “tẩu hỏa nhập ma” và bị đuổi ra khỏi chùa.
Khi bị đuổi khỏi chùa Linh Ẩn, cuộc sống của ông vô cùng khốn khó, phải đi ăn xin, nên người ta cho gì ăn nấy, cốt duy trì sự sống cho mình, đôi khi trong thức ăn có thịt. Thực ra Tế Công cũng chỉ đôi lần ăn thịt mà thôi. Nhưng người đời sau đã thổi phồng câu chuyện của ông.
Không giống với các tăng sĩ Phật giáo bình thường, sư không thích tuân theo giới luật và thích uống rượu, ăn thịt, đến những nơi như quán rượu, nhà dân mà không quan tâm việc người đời bàn tán, gièm pha.
Người đời thấy hành động có vẻ điên khùng, kỳ quái như vậy nên đặt biệt danh cho sư là Tế Điên. Y phục của sư rách nát, bẩn thỉu khi đi từ nơi này đến nơi khác, thường xuyên té ngã khi đang say rượu.
Tuy nhiên, sư rất tốt bụng và thể hiện tinh thần nhập thế cứu đời của Bồ Tát; sư thường sẵn sàng giúp đỡ những người thường, chữa trị cho những người bệnh và đấu tranh chống lại những điều bất công trong xã hội như những người giàu, có quyền thế ức hiếp dân nghèo,…
Các vị sư trong chùa vì không hiểu được ý nghĩa những hành động quái lạ của Tế Công và sợ ảnh hưởng đến thanh danh, giới luật Phật giáo nên đẩy sư ra khỏi chùa và vì thế sư thường đi lang thang khắp nơi, không trú tại bất kỳ nơi nào cố định và giúp đỡ mọi người bất kỳ khi nào có thể.
Người đương thời và đời sau vì thấy những hành động lập dị, kỳ quái, thần thông biến hóa nhưng đầy từ bi, nhân từ của sư nên nghĩ rằng sư hiện thân của Bồ Tát, A La Hán. Trong đó, nhiều người coi sư như là hóa thân của Hàng Long La Hán – một trong thập bát La Hán.
Có một truyền thuyết kể lại rằng cư dân ở vùng Tần Hồ rất thích ăn ốc nhưng họ chỉ ăn phần đuôi, sư bèn xin hết chổ ốc họ bỏ đi đó đem thả xuống sông, ốc sống lại nhưng cụt đuôi.
Thiền sư Đạo Tế từng nói bài kệ về phong cách tu hành của mình như sau:
Cổ thi Phật Tổ để một phong,
Dạy khuyên tu miệng lẫn tu lòng,
Người nay tu miệng, lòng không sửa.
Bần tăng lòng sửa, miệng thì không.
Vào đương thời, trong xã hội Trung Quốc có nhiều biến cố chính trị, người dân mê muội. Trong giới Phật giáo cũng xuất hiện một số tình trạng tệ nạn, sa sút trong nội bộ tăng sĩ.
Tế Công là bậc thiền sư đã khai ngộ, thấu suốt tự tính, không còn bị sinh tử luân hồi ràng buộc. Các Thiền sư trong Thiền tông thường dùng những cơ xảo, lời nói trái với thường tình như đánh, hét, dựng Phật tử,.. để giúp người họ thoát khỏi tâm chấp trước, liền được ngộ đạo.
Tế Công vì thấy người đời chấp trước vào hình tướng bên ngoài, tham lam, ích kỷ, ham mê danh lợi, tài sắc, mà quên mất bản tâm Phật tính, tâm thiện ngay nơi mình, không chịu chú trọng thực tâm tu hành, cầu đạo giải thoát nên ngài từ bi thị hiện điên điên, khùng khùng, mặc đồ rách rưới để phá bỏ tâm chấp thật của chúng sinh, giúp dân chúng hướng thiện, kết thiện duyên với Phật pháp.
Hành tung của các Thiền sư thường ảo diệu, đến đi không để lại dấu vết, chỉ chú trọng dùng phương tiện giúp người. Tế Công cũng vậy, hành động của sư nếu không phải là người học đạo, tu hành thì khó mà lường được.
Tuy hình tướng bên ngoài của sư khác thường nhưng tâm Bồ Tát rộng lượng cứu độ chúng sinh, giúp người, giúp vật thoát khỏi bệnh tật, nguy nan, bỏ tà theo chánh đã cảm hóa được nhiều người đương thời, đến nay hình tượng Tế Công vẫn là một dòng cảm hứng lớn đối với nhân sinh.
Phật giáo Trung Quốc ít nhiều ảnh hưởng từ các nghi lễ Nho giáo, trọng văn chương, nghi lễ, ngôn ngữ thâm sâu, điêu luyện nên các tầng lớp dân cư thấp, ít học trong xã hội khó tiếp cận được Phật pháp.
Sự xuất hiện của những câu chuyện về cuộc đời giáo hóa của Tế Công và sự lan truyền rộng rãi trong quần chúng đã giúp cho những người bình thường, ít chữ, văn hóa thấp dễ dàng hiểu được các giáo lý Phật pháp cơ bản.
Khi có người hỏi về nguyên cớ tại sao Tế Công điên điên, khùng khùng, truyền thuyết kể lại rằng Ngài cười lớn và nói:
“Ha ha! Người đời thường cười ta điên điên khùng khùng, thật ra Đạo Tế ta tuy điên mà chẳng khùng, nay giải thích cái lí ấy như sau: cái gọi là “điên khùng” là tinh thần thất thường, lời nói hành động chẳng có chút trật tự, giống kẻ ngốc nghếch ngờ nghệch vậy.
Ta tuy là vẻ bề ngoài trông điên khùng, nhưng trong tâm ta một dải chân không, tất cả lời nói hành động đều xuất phát từ tự nhiên, vả lại lời nói có thể khuyên người đời hướng thiện, hành động thì là độ chúng sinh quay đầu về bờ, hoàn toàn khác với người đã nói đến ở trước. Ta du khắp nơi, không bị ràng buộc”.
Có câu rằng “Đại trí nhược ngu” (người có trí tuệ cực cao ẩn mình thường làm ra vẻ bề ngoài trông giống như rất bình phàm và ngu mê).
Với những khả năng đặc biệt của bản thân và lối sống khác biệt, Hòa thượng Tế Công trở nên nổi tiếng, cho dù có những giai thoại được coi như lạ kỳ như dù ông là Hòa thượng nhưng đôi lúc vẫn ăn thịt, ông được ghi nhận nhiều nhờ tấm lòng nhân hậu với những người gặp khó khăn và những công năng đặc dị mà người đời không giải thích được.
Ngày 16 tháng 5 năm 1209, sư an nhiên ngồi kiết già thị tịch, hưởng thọ 79 tuổi, trước khi tịch sư có để lại một bài kệ:
Sáu mươi năm phiêu bạt đó đây.
Vách phên trống toát chẳng hề lay.
Bây chừ khăn gói quay về lại.
Dòng xưa còn mãi nước trời mây.
Nguyệt Hòa biên tập