Bí ẩn thiên cổ của ngôi chùa ngàn năm tuổi được mệnh danh là ‘1 trong 10 kiến trúc nguy hiểm nhất thế giới’
Được mệnh danh là một trong mười kiến trúc nguy hiểm nhất thế giới, bí ẩn thiên cổ của ngôi chùa treo Hằng Sơn Huyền Không Tự chấn động thế giới khảo cổ. Động đất cấp 6 không hề hấn, phát hiện “vít nở khổng lồ” từ hàng ngàn năm trước?
Tại Đại Đồng, Sơn Tây có một khối kiến trúc độc đáo có một không hai trên thế giới – Chùa treo Hằng Sơn Huyền Không Tự. Chùa Huyền Không là sự kết hợp thành nhất thể giữa kiến trúc, lực học, mỹ học, phảng phất như một bức phù điêu treo lơ lửng giữa những vách đá, được tạp chí “Thời đại” của Mỹ bình chọn là một trong “Top 10 kiến trúc nguy hiểm nhất thế giới”. Mỗi ngày, các chuyên gia đến tham quan liên tục không ngừng, một số những phát hiện của họ thậm chí gây chấn động giới khảo cổ.
Kỳ tích kiến trúc thiên niên kỷ
Diện triêu Hằng san, bối ỷ Thúy Bình
Thượng tái nguy nham, hạ lâm thâm cốc
Tạc thạch vi cơ, tựu nham khởi ốc
Lâu các huyền không, kết cấu xảo kì.
Bài thơ viết, chùa Huyền Không mặt đối diện núi Hằng, lưng tựa Thúy Bình; Trên tỳ lên đá, dưới lâm thâm cốc; Tạc đá làm nền, tựa vào đá vươn lên; những lâu các treo lơ lửng trên không, kết cấu thật kỳ xảo. Đây là đệ nhất thắng cảnh của 18 thắng cảnh núi Hằng: chùa Huyền Không.
Chùa Huyền Không được xây dựng giữa các vách đá của đỉnh Thúy Bình ở phía tây hẻm Kim Long của núi Hằng từ cách đây hơn 1.500 năm. Toàn bộ ngôi chùa là một cấu trúc gỗ, trên một số đường ván được đỡ bởi các trụ gỗ màu đỏ, xây lên khoảng 40 gian lâu các lớn nhỏ. Sự phân bố của những tòa lâu các này, trong đối xứng có biến hóa, tưởng phân tán mà liên kết lẫn nhau, khúc chiết hồi hoàn, hư hư thực thực.
Mô hình tổng thể của ngôi chùa này cũng rất khác so với đại bộ phận chùa chiền mà người ta thường thấy, trung trục đột xuất, tả hữu đối xứng, cũng không giống các ngôi chùa trên núi, dựa vào thế núi mà lên cao dần, chùa Huyền Không là mượn những chỗ lồi lõm của vách đá mà khởi thế, tùy kỳ tự nhiên, như hòa với núi thành nhất thể. Nhìn từ xa xa, chùa Huyền Không giống như một bức phù điêu tinh xảo lung linh, được khảm vào giữa những vách đá sắc nhọn, nhưng khi bước tới gần mà nhìn, nó hiện ra đầy linh động, cảm giác như thể nó đang bay lơ lửng trên không trung.
Tiểu thuyết gia Kim Dung từng mô tả Huyền Không trong tiểu thuyết võ hiệp “Tiếu ngạo giang hồ”, ngay cả thi tiên Lý Bạch cũng đã từng du lãm đến đây, bị chấn động bởi kỳ quan này. Hai chữ lớn màu đỏ “tráng quan 壯觀” trên tảng đá đặt phía dưới chùa chính là thư pháp mà Lý Bạch để lại. Hãy xem những ký tự mà Lý Bạch lưu lại, bạn có phát hiện thứ gì kỳ lạ không? Đúng vậy, bên cạnh chữ “tráng 壯” có chấm thêm một điểm, đây lẽ nào là do Lý Bạch viết sai? Nghe nói ông ấy sau khi đi thăm chùa Huyền Không, tâm tình kích động, đã cao hứng chấm thêm một điểm, ý tứ là, dùng hai chữ “tráng quan” cũng không đủ để hình dung chùa Huyền Không. Từ Hà Khách, nhà thám hiểm vĩ đại của triều Minh, cũng biến sự ngưỡng mộ của mình đối với chùa Huyền Không thành bốn chữ “Thiên hạ cự quán 天下巨觀”.
Xung quanh chùa Huyền Không vẫn còn rất nhiều bí ẩn, trong đó điều khiến người ta hiếu kỳ nhất là làm thế nào mà cổ nhân xây dựng được ngôi chùa này trên vách đá vào thời cổ đại, khi chưa có máy móc cơ giới? Vì sao kết cấu kiến trúc hoàn toàn bằng gỗ này có thể đứng vững qua hàng nghìn năm mà không ngại động đất?
27 dầm ngang chống đỡ toàn bộ ngôi chùa
Các nhà khảo cổ đã phát hiện, dưới các tòa lâu các của chùa Huyền Không và các đường ván đều có chôn các thanh dầm bằng gỗ. Các thanh dầm ngang này có đường kính khoảng 50cm, cắm sâu vào đá núi 2m, phần lộ ra khoảng 1m. Đếm từng cái từng cái, tổng cộng có 27 dầm ngang như vậy, các chuyên gia cho rằng những nhà kiến tạo đã vận dụng nguyên lý lực học để biến những thanh dầm được chèn một phần vào vách đá này làm nền tảng cho toàn bộ ngôi chùa, gánh đỡ toàn bộ Huyền Không tự.
Bên dưới chùa Huyền Không, mọi người còn thấy những trụ đứng, dường như đóng vai trò chống giữ, tráp chùa Huyền Không vào vách đá. Kỳ thực những trụ đứng dưới đường ván chỉ là đồ trang trí do người đời sau thêm vào, chúng có thể lay động, không hề có tác dụng chống đỡ, nhưng những trụ đứng dưới các lâu các lại hoàn toàn khác, những trụ đứng này đầu gối vào dầm ngang, dường như không cách nào di động.
Vấn đề tải trọng đã được giải quyết, nhưng làm thế nào mà dầm gỗ có thể tồn tại hàng nghìn năm mà không bị mục nát? Nghe nói những dầm gỗ này làm bằng loại gỗ thiết sam đặc sản của địa phương được gia công mà thành, toàn bộ đều ngâm tẩm trong dầu cây vông, có tác dụng chống mục rất tốt, hèn chi mà trải qua ngàn năm nó vẫn còn nguyên vẹn. Vì vậy, người dân địa phương gọi những dầm gỗ này là “cột thép”.
Vít nở khổng lồ thời cổ đại
Vào những năm 1990, Ban Văn vật Sơn Tây đã cố gắng thử thay thế một số dầm ngang của chùa Huyền Không, nhưng điều khiến người ta không ngờ tới là, trong quá trình sửa chữa lần đó, các chuyên gia đã phát hiện phương thức xây dựng độc đáo của ngôi chùa treo này.
Thì ra khi sửa chữa mấy mét ngang của lối đi phía Tây, mọi người đã cố gắng hết sức lôi những thanh dầm ra khỏi các hốc đá mà không được. Không có biện pháp nào khác, cuối cùng chuyên gia quyết định dùng cưa để cưa rời thanh dầm, sau đó dùng máy khoan điện để khoan phần gốc của thanh dầm ra. Bằng cách này, dầm ngang cuối cùng đã được đưa ra ngoài một cách không hề dễ dàng.
Sau khi dầm ngang được lấy ra, các chuyên gia phát hiện hình dạng của những dầm ngang này rất kỳ lạ, đầu các dầm ngang có răng đảo, trong khe hở có cây chêm chêm vào, sau khi nghiên cứu mới phát hiện, đây chẳng phải là một loại vít nở cự đại sao! Hóa ra tất cả các dầm ngang đều được xử lý độc đáo: thêm một cái chêm ở đầu dầm mà đẩy vào lỗ đá, khi đẩy dầm vào trong lỗ đá, cái chêm sẽ khiến đầu dầm nở ra, kẹp chặt vào thạch bích, càng sâu càng tốt, cố định càng chặt chẽ hơn.
Theo ghi chép trên bia đá trong chùa, lúc bấy giờ, những người thợ đầu tiên đào lỗ đá để cắm dầm, sau đó xuống chân núi, chế tác từng cấu kiện gỗ để dựng nên những lâu các của ngôi chùa. Khi tất cả các cấu kiện đều được chế tạo xong, chúng được vận chuyển lên đỉnh núi, sau đó dùng dây thừng đưa công nhân và những cấu kiện này hạ xuống sườn núi, nơi các công nhân lắp ráp những cấu kiện này thành những lâu các đơn độc. Sau đó họ lại bổ sung thêm con đường bằng ván giữa các lâu các đơn độc để kết nối chúng thành một chỉnh thể, từ đó trở thành chùa Huyền Không.
Năng lực kháng chấn siêu cấp
Huyện Hồn Nguyên, nơi sở tại của chùa Huyền Không, đã từng ghi chép nhiều lần địa chấn trong lịch sử, trong 40 năm gần đây nhất đã xảy ra hai trận động đất trên cấp 6, một trận khiến khoảng 1/3 nhà cửa ở huyện Hồn Nguyên bị sập, khiến tổn thất nặng nề, nhưng chùa Huyền Không vẫn an nhiên vô sự. Điều đáng chú ý là, ngôi chùa bằng cách nào làm được điều này?
Chúng tôi đã giới thiệu trước đây, rằng chùa Huyền Không hoàn toàn là một kiến trúc bằng gỗ, không chỉ có những lâu các lơ lửng được chống đỡ trên vách đá bằng dầm gỗ, mà bản thân kết cấu khung giá của lâu các cũng tổ thành bởi các dầm và cột gỗ, được liên kết với nhau bởi kết cấu lỗ mộng và mộng. Một trong những đặc điểm đáng chú ý nhất của kết cấu lỗ mộng và mộng chính là tính đàn hồi cao của nó. Khi một kiến trúc có kết cấu này chịu tác dụng của ngoại lực cực lớn, các cấu kiện sẽ dịch chuyển so le nhau, nhưng khi ngoại lực biến mất, nó lại phục hồi về nguyên trạng, nhờ vậy mà năng lực chống động đất của nó siêu mạnh.
Một ví dụ điển hình khác về kiến trúc kết cấu lỗ mộng và mộng là cố cung ở Bắc Kinh. Kể từ khi cố cung được xây dựng cách đây hơn 600 năm, có thể nói, nó đã trải qua bao lần khảo nghiệm. Chỉ riêng động đất đã có hơn 200 trận lớn nhỏ, nhưng cố cung vẫn bình an vô sự sau mỗi trận động đất. Một chuyên gia từng phục chế mô hình Tử Cấm Thành theo tỷ lệ 1:5 và tiến hành thử nghiệm mô phỏng động đất trên đó, kết quả thật bất ngờ: ngay cả khi cường độ địa chấn lên tới 10,1 độ richter, mô hình vẫn đứng thẳng. Có thể thấy khả năng chống động đất của kết cấu lỗ mộng và mộng là rất cường đại.
Tiếp tục nói đến chùa Huyền Không, để phòng ngừa tổn thất do động đất gây ra, có một thiết kế khác của chùa Huyền Không cũng vô cùng tinh tế, đó là gì? Mọi người quan sát chi tiết chùa Huyền Không, nó nằm trong một cái rãnh ở sườn núi, trông giống như thể sườn núi bị khoét đi một khối bằng đao búa, vì vậy mà đỉnh núi phía trên chùa Huyền Không trở thành chiếc ô bảo vệ tự nhiên của nó. Ngay cả khi động đất, hay khi có những tảng đá lăn xuống từ trên đỉnh núi, thì cũng không thể chạm vào nó.
Nói đến đây, bạn có cảm thấy người thiết kế chùa Huyền Không quá uyên thâm, và muốn biết ông ấy là ai không? Và điều này dẫn đến một bí ẩn khác của chùa Huyền Không.
Bí ẩn về thân thế
Người ta thường tin rằng chùa Huyền Không được xây dựng vào thời Bắc Ngụy, có người nói rằng Khấu Khiêm Chi, Thiên sư đạo trưởng của triều đại Bắc Ngụy, đã lưu lại một di huấn trước khi qua đời, nói rằng muốn xây một ngôi chùa trên không, phải làm được đến “Thượng diên tiêu khách, hạ tuyệt tiêu phù”, ý tứ là nói, bước lên ngôi chùa này có thể viễn ly sự huyên náo của trần thế, vứt bỏ mọi phiền não nhân gian, tinh tấn tu hành, làm bạn với thần tiên trên thiên thượng. Sau này, các đệ tử của Thiên sư huy động quyên góp từ đa phương, cẩn thận lựa chọn địa điểm và thiết kế, vào năm Thái Hòa thứ 15 thời Bắc Ngụy, cũng chính là năm 491 SCN, đã kiến thành chùa Huyền Không. Còn có một thuyết pháp cho rằng chùa Huyền Không là do Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế Thác Bạt Hoành hạ lệnh cho các quan viên xây dựng, mang đạo trường của Thiên sư đạo trưởng Khấu Khiêm Chi di chuyển đến đây. Còn có truyền thuyết rằng chùa Huyền Không là do hòa thượng Liễu Nhiên triều đại Bắc Ngụy kiến tạo.
Tại sao? Một ngôi chùa, vì sao ngay cả việc nó do Đạo gia hay Phật gia kiến tạo cũng không nói rõ? Bởi vì chùa Huyền Không không phải là Phật tự, cũng không phải là Đạo quán, nó là ngôi chùa hợp nhất tam giáo Phật, Đạo, Nho duy nhất hiện tồn trong nội cảnh Trung Quốc. Trong chùa, tượng Lão Tử của Đạo giáo, Thích Ca Mâu Ni của Phật giáo, Khổng Tử của Nho giáo, thủy tổ của tam giáo, được đặt trong cùng một điện.
Chùa Huyền Không ban đầu được gọi là “Huyền Không các”, “Huyền 玄” được lấy từ giáo lý Đạo giáo truyền thống Trung Quốc, từ “Huyền 懸” bắt nguồn từ giáo lý của Phật giáo, sau này do hai từ phát âm giống nhau, mà treo lơ lửng trên không là đặc sắc lớn của ngôi chùa này, nên sau này nó được đổi tên là “Huyền Không tự” – chùa Huyền Không.
Nói về “Tam giáo hợp nhất” này, nó cũng là một bí ẩn chưa được giải đáp. Bởi vì từ cổ chí kim, trong giới tu luyện đều có thuyết pháp rằng: “Bất nhị pháp môn”, nghĩa là không cho phép tu lẫn; Tu Phật chính là tu Phật, tu Đạo chính là tu Đạo, cho dù ngay cả trong Phật giáo có những pháp môn khác nhau, trong Đạo giáo cũng có những môn phái khác nhau, đều không thể trộn lẫn, nhưng chùa Huyền Không tại sao lại thờ cả tam giáo Nho, Thích, Đạo?
Một số người nói rằng điều này phản ánh tính bao dung của văn hóa Trung Quốc. Ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, chiến tranh thường phát sinh xoay quanh vấn đề tôn giáo tín ngưỡng; hoặc bạn chết, hoặc tôi chết. Trong lịch sử 5.000 năm của Trung Quốc xưa nay chưa từng xảy ra chiến tranh tôn giáo, văn hóa Trung Quốc dùng trái tim bác đại, khiêm dung bao bọc những tín ngưỡng bất đồng, vì vậy Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo Trung Quốc, bao gồm cả Cơ đốc giáo truyền nhập sau này, đều có thể được sinh tồn và phát triển rất tốt.
Một số người nói rằng có thể có một nội hàm thâm sâu hơn trong đó. Cách đây 2.500 năm, khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, ngài đã nói với các đệ tử, rằng Phật pháp của ngài chỉ có thể truyền trong 500 năm, rồi sẽ dần dần tiến vào thời kỳ suy tàn, không thể độ nhân được nữa. Điều này kỳ thực cũng không khó lý giải, nếu bạn đến thăm một số ngôi chùa nổi tiếng, bạn sẽ phát hiện ở đó sớm đã không còn là tịnh thổ của Phật môn, tư tưởng của các tăng nhân không nằm tại tịnh tu đắc chính quả, mà là làm sao để phát tài cầu danh, có tăng nhân còn là đảng viên, cán bộ ăn lương; nói rằng họ mặc áo cà sa hủ hoại Phật pháp cũng không hề quá đáng. Phật giáo như vậy, Đạo giáo cũng như vậy.
Tuy nhiên, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng lưu lại cho mọi người niềm hy vọng, ngài nói rằng trong tương lai, Đức Chuyển Luân Thánh Vương sẽ đến thế gian, dùng từ bi và trí huệ vĩ đại để trị vì thế giới, đến lúc đó con người có thể tu hành trong thế tục. Từ quan điểm này, có lẽ Đức Chuyển Luân Thánh Vương có trí huệ và năng lực siêu việt hết thảy tôn giáo, bất kể tín ngưỡng trước đây của mọi người là gì, họ đều có thể được Đức Chuyển Luân Vương cứu độ. Chùa Huyền Không cũng có thể đang tuân theo Thiên ý, gợi ý cho thế giới về hình thức tu luyện của tương lai. Có phải vậy không? Chúng tôi không có cách nào để biết. Còn bạn, bạn cảm thấy còn cách giải thích nào khác nữa không? Hãy chia sẻ với chúng tôi.
Nói về ngôi chùa treo này, thực ra ở Trung Quốc có rất nhiều, ngoài ngôi chùa Huyền Không Hằng Sơn nổi tiếng nhất, còn có một ngôi chùa khác cũng được mệnh danh là kỳ quan kiến trúc, đó là ngôi chùa Cam Lộ ở Phúc Kiến, được chống đỡ bằng một cây cột trong gần 900 năm. Dân gian có câu nói: “Bắc hữu Hằng Sơn Huyền Không tự, Nam hữu Kim Hồ Cam Lộ tự”, chúng ta hãy đến đó xem xem.
Kỳ tích của một cây cột
Chùa Cam Lộ ở Phúc Kiến nằm trong Khu phong cảnh Thái Ninh Kim Hồ, được xây dựng trong một hang động có đỉnh rộng, đáy hẹp, có lịch sử hàng trăm năm từ thời Nam Tống đến nay. Vì có nước suối rỉ ra từ đỉnh chùa, sau khi được lọc qua các tầng đá, nước có vị ngọt ngọt giống như mật hoa, nên ngôi chùa này được gọi là chùa Cam Lộ.
Những lâu các màu đỏ son của chùa Cam Lộ mang đậm phong cách nghệ thuật kiến trúc thời nhà Tống, tráng lệ và hoa mĩ. Bố cục của toàn bộ quần thể kiến trúc rất thần thánh trang nghiêm, khiến mọi người cảm giác tâm sinh kính sợ khi nhìn thấy nó. Tuy nhiên, điểm đáng ngưỡng mộ nhất của ngôi chùa cổ kính này chính là kết cấu kiến trúc “nhất trụ tráp địa, bất giả phiến ngõa”. Điều đó nghĩa là gì?
Kiến trúc chủ thể của chùa Cam Lộ toàn là kết cấu bằng gỗ, chỉ có một cây cột gỗ dày chống đỡ cả quần thể kiến trúc cao lầu ba tầng giữa các bức tường đá, kỹ thuật kiến trúc có thể nói là thần kỳ. Ngoài ra, toàn bộ chùa Cam Lộ được nối với nhau bằng những mái vòm hình chữ “T” hay còn gọi là “vòm lồng”, toàn bộ kiến trúc không sử dụng một chiếc đinh nào. Công nghệ kiến trúc tinh xảo của chùa Cam Lộ có lực ảnh hưởng thâm viễn đối với kiến trúc châu Á. Ngay từ thế kỷ 12, người Nhật đã ba lần đến thăm chùa Cam Lộ, nghe nói bố cục kết cấu được sử dụng trong đại Phật điện của chùa Đông Đại Tự (Todaiji) ở Nara, Nhật Bản được lấy mẫu từ chính chùa Cam Lộ. Trong kiến trúc Phật giáo Nhật Bản, có một loại hình kiến trúc gọi là “Đại Phật Dạng”, nguồn gốc của nó có liên quan mật thiết đến chùa Cam Lộ.
Liên quan đến nguồn gốc của chùa Cam Lộ, dân gian còn có một câu chuyện như vậy. Tương truyền, chùa Cam Lộ chỉ là một ngôi chùa nhỏ bình thường. Một ngày nọ, một người phụ nữ đến ngôi chùa và hướng tới Quán Thế Âm được thờ cúng bên trong, ước nguyện rằng: “Nếu lần này có thể sinh được con trai, nhất định sẽ xây dựng lại ngôi chùa này, hang động cao lớn bao nhiêu, ngôi chùa sẽ cao lớn bấy nhiêu”. Sau đó, người phụ nữ sinh được một cậu con trai, lấy tên là Diệp Tổ Hiệp, sau này đỗ trạng nguyên. Để hoàn thành tâm nguyện của người mẹ, trạng nguyên họ Diệp đã chiêu mộ những thiên tài kiến trúc từ khắp nơi trong thiên hạ để xây dựng lại ngôi chùa ở đây, nhưng do địa thế cao và hiểm trở, nên ngôi chùa đã không thể khởi công trong một thời gian dài. Một ngày nọ, một người thợ thủ công tên là Chu Chước Đầu nhìn thấy một người đàn ông lực lưỡng khiêng một khúc gỗ tròn lớn và thẳng, đặt nó lên một cây xiên sắt hình chữ Y, vì vậy ông đã có cảm hứng “một cột nâng Trời” để thiết kế chùa Cam Lộ, và hậu nhân đã gọi cây cột chống đỡ ngôi chùa này là “Trụ Trạng Nguyên”.
Thành thật mà nói, nhìn thấy hai ngôi chùa cổ tráng lệ được xây dựng trên vách đá, chùa Huyền Không Hằng Sơn và chùa Cam Lộ Phúc Kiến, tôi thực sự không thể không cảm thấy ngưỡng mộ trí huệ của cổ nhân Trung Quốc. Việc thiết kế và kiến tạo hai ngôi chùa này thực sự là đỉnh cao, không chỉ có vẻ ngoài xinh đẹp, mà phương thức kiến trúc cũng tràn đầy những xảo tư kỳ tưởng táo bạo. Vào thời cổ đại, toàn bộ quá trình xây dựng đều hoàn toàn dựa vào sức người, không có sự trợ giúp của công nghệ hiện đại và các trang bị cơ giới, làm sao để có thể hoàn thành những công trình kiến trúc đáng kinh ngạc như vậy, thật là rất khó đoán.
Nguồn: DKN (Hương Thảo)