Nhìn xa núi muôn màu, nhìn gần nước lặng im – một bức tranh thơ mộng
Đóa hoa kiều diễm sẽ héo tàn, chim núi linh động sẽ bay đi, mùa xuân tươi đẹp cuối cùng cũng sẽ rời đi, làm sao chúng ta có thể lưu lại được hết thảy đây?
Hãy để một bài thơ trả lời bạn:
“Viễn khán sơn hữu sắc, cận thính thủy vô thanh.
Xuân khứ hoa hoàn tại, nhân lai điểu bất kinh.
Viễn viễn khán khứ, sơn sắc minh lượng thanh thúy.
Lâm cận nhất thính, thủy lưu khước một hữu thanh âm.
Xuân thiên quá khứ liễu, hoa đóa y cựu thịnh phóng.
Nhân tẩu quá lai, điểu nhi khước bất kinh phi.
Xa nhìn núi muôn màu, gần nghe nước vô thanh.
Xuân đi hoa vẫn còn đó, người đến chim không sợ hãi.”
Tam dịch:
“Xa nhìn núi muôn màu, gần nghe nước im ắng.
Xuân đi hoa vẫn còn đó, người đến chim không sợ hãi.
Nhìn từ xa núi trông xanh tươi.
Tới gần nghe nước chảy nhưng không có thanh âm.
Mùa xuân đã qua mà hoa vẫn nở rộ.
Chim không sợ hãi khi người đến.”
Bài thơ tuy ngắn ngủn, nhưng thật thanh nhã và tao nhã, nhưng nếu nhìn kỹ lại, tất cả đều là những mô tả khác thường: Núi, càng nhìn từ xa càng có vẻ mơ hồ, nhưng hôm nay dáng vẻ lại tươi sáng rõ nét hơn. Nước, càng đến gần nghe thì âm thanh nước chảy càng rõ ràng hơn, nhưng bây giờ lại yên tĩnh im lặng. Mùa xuân đã đi qua, nhưng hoa vẫn nở rộ như cũ, chim núi vui vẻ đậu trên cành cây, mặc người ta đến gần ngắm nhìn mà không sợ bay.
Hóa ra đây là một bài thơ về hội họa.
Trong nhân thế khác thường, nhưng lại chính là thiên nhiên ở trong tranh vẽ.
Bài thơ này không chỉ thể hiện một cách sinh động đặc điểm của bức tranh, mà còn vô tình mở ra một triết lý thơ cảnh độc đáo với những nghịch lý tuyệt vời: Khung cảnh trong tranh phá vỡ giới hạn của mắt và tai, sự phân biệt giữa thời gian và không gian, chủ thể và đối tượng, dừng lại ở một trạng thái đẹp đẽ và vĩnh cửu hơn. Vậy thì các giác quan của tai, mắt là có thật hay thứ thanh tịnh và thường hằng là có thật sau khi loại bỏ sự can thiệp của khái niệm? Cái nào là thực tế của cuộc sống?
“Bức tranh” dường như không còn là một bức tranh nữa mà là một bức tranh về cuộc sống. “Xa nhìn núi muôn màu, gần nghe nước im ắng”. Cũng giống như sự bối rối tìm kiếm bên ngoài, chỉ ra chân lý “màu là hư không”; Xuân đã đi hoa nở vẫn còn đó, nhưng chim núi không sợ hãi khi người đến, và điều đó giống như nhìn lại và xem xét nội tâm. Sự trong sáng làm nảy sinh nhận thức rằng “không tức là sắc”.
Bài thơ ngắn ngủn này chia thành hai cấp độ: hai dòng đầu tiên “tạo ra thứ gì đó từ hư vô”, và mặc dù những gì bạn nhìn thấy rất đẹp, bạn lại thấy nó không có thật; dòng thứ ba và thứ tư “tạo ra thứ gì đó từ hư không”, sau khi từ bỏ sự ràng buộc của những thứ bên ngoài, bản chất của vẻ đẹp mới hiển lộ ra.
Tình huống hiện diện và vắng mặt mâu thuẫn này tạo nên sự quan tâm đặc biệt cho toàn bộ bài thơ, vì ngôn từ xa xưa nên được đồn đại là tác phẩm của nhà thơ Vương Duy. Tuy nhiên, tác phẩm này không được tìm thấy trong “Toàn tập thơ đời Đường”. Một số người cũng xem qua kinh điển và xác minh rằng bài kệ này được viết bởi Thiền sư Đạo Xuyên thuộc hệ Lâm Tế thời Nam Tống (xem ghi chú).
Rốt cuộc tác giả là vì ai? Đối với người? hay là đối với mình? Hiện thực hay là không tồn tại?
Kỳ thực, nó cũng không trọng yếu.
Cảnh vật dù đẹp đến mấy cũng sẽ biến mất theo mùa nhưng có thể tồn tại mãi mãi khi tiến vào trong tranh. Một bức tranh dù đẹp đến mấy thì cuối cùng cũng chỉ giới hạn ở khuôn khổ, thêm chất thơ thì phải mở rộng. Họa vẫn là họa, thơ hay vẫn là thơ, chỉ còn vẻ đẹp được nghệ thuật gột rửa là còn đọng lại trong lòng người xem.
Ghi chú:
Khi Thiền sư Đạo Xuyên của Lâm Tế phái thời Nam Tống bình giảng Kinh Kim Cương, ngài đã viết một bài kệ: “Xa nhìn núi muôn màu, gần nghe nước im ắng. Xuân đi hoa vẫn còn đó, người đến chim không sợ hãi”.
Kỳ Mai biên dịch
Văn Tư Mẫn – soundofhope