Blog
Niệm Thiện vừa xuất khởi phúc đức đã muốn đến nơi
Niệm Thiện vừa xuất khởi phúc đức đã chuẩn bị đến nơi. Chàng trai trong câu chuyện dưới đây vì thương cảm niềm bi ai của hai người xa lạ mà xuất khởi lòng tốt. Hơn nữa, anh ta không hề khoa trương kiêu ngạo, một mực khiêm tốn, giữ gìn phẩm chất cao quý. Cũng chính vì vậy mà việc tốt lành liên tục xảy đến với anh, và đến tận đời con cháu vẫn được hưởng phúc lành.
Trước đây có một vị thư sinh họ Chu vốn là người ham học, tính tình lại lương thiện. Nhưng vào năm anh ta 12-13 tuổi thì cha mẹ lần lượt qua đời nên đành phải bỏ học. Một người họ hàng của anh phải đưa anh ta đến Gia Hưng, mở một cửa hàng và dạy cách làm ăn buôn bán.
Chu thư sinh lanh lợi lại rất chăm chỉ chịu khó, trong buôn bán hay làm người đều chân thật nên rất được ông chủ yêu quý. Anh cần kiệm cũng tích góp được 100 lượng bạc. Anh muốn về quê bởi từ nhỏ anh đã có một hứa hôn ở nên cần trở về để thành thân. Ông chủ thấy 100 lượng bạc là chưa đủ nhiều nên đã giúp thêm 100 lượng và chọn ngày đẹp để tiễn anh ta lên đường về quê.
Nhưng chỉ 10 ngày sau đã thấy Chu thư sinh quay trở lại, ông chủ thấy vậy vô cùng kinh ngạc hỏi: “Vì sao con quay trở lại sớm như vậy?”
Để có cuộc sống bình an và hút nhiều tài lộc, hãy tham khảo các vật phẩm phong thủy thủ công của Hòn Ngọc nhé!
Lẵng Tài Lộc Buôn May Bán Đắt
Tháp Tỏi Ngũ Hạt Hút Tài Lộc
Vòng Tỏi May Mắn Chiêu Tài Hút Lộc
Chu thư sinh trả lời: “Con thưa thầy (Phàm là người học kinh doanh đều coi ông chủ của mình là thầy), con đi được nửa đường thì thì bị cướp, mất hết toàn bộ tiền bạc. Vì trở về nhà như vậy con sẽ không làm được việc gì nên con quay trở lại đây làm việc, chờ đợi khoảng hai năm nữa, tích cóp được một số tiền rồi con lại hồi hương.”
Ông chủ nghe Chu thư sinh trả lời như vậy, trong lòng cảm thấy tiếc hận thay cho anh ta. Thế nhưng ông không biết rằng Chu thư sinh đã nói dối.
Sự việc là như thế này: Chu thư sinh trên đường trở về, đến chỗ đón thuyền thì trời đã muộn nên anh ta đành nghỉ chân tại một quán trọ gần đó. Buổi tối hôm đó, anh nghe thấy tiếng khóc rất bi ai của hai người phụ nữ ở nhà bên.
Sáng hôm sau, Chu thư sinh liền đến chủ quán trọ hỏi, chủ quán trọ trả lời: “Nói về chuyện của hai mẹ con họ cũng đủ để đau lòng! Hai người khóc lóc ngày hôm qua là mẹ chồng và con dâu của bà. Bà lão là người thủ tiết nuôi con trai trưởng thành. Cô con dâu là người xinh đẹp nết na lại hiếu thảo, cũng là người mà bà lão đã đích thân chọn con trai
Sau khi kết hôn khoảng một năm thì gia đình gặp cảnh mất mùa, vì thiếu miêng ăn nên người con trai đành phải đến Tứ Xuyên làm phụ giúp tướng quân kiếm tiền gửi về nuôi dưỡng mẹ, số tiền không đủ nên người con dâu ở nhà cũng thêu thùa đỡ đần. Sau đó, vì Xuyên quân và Sở quân giao tranh nên đường xá không thông, nay đã ba năm rồi mà không có tin tức gì của người con trai.
Vào cảnh mất mùa, lương thực đắt đỏ khiến hai người khó sống. Bà lão bất đắc dĩ chuẩn bị đem con dâu đi bán cũng là để con dâu có chốn nương thân. Ngày hôm qua bà mối nói có một người nhà giàu muốn lấy vợ đẹp nên đã trả giá 300 lượng để mua cô con dâu kia về làm thê thiếp. Giao ước đã hoàn thành rồi. Hai mẹ con họ không muốn xa nhau nên cả đêm mới khóc lóc như vậy.”
Chu thư sinh nghe xong liền cảm thấy vô cùng thương xót, anh ta cũng cẩn thận hỏi ông chủ quán trọ về gia thế của hai mẹ con họ, tên tuổi và tướng mạo của người con trai kia. Chu thư sinh sau đó quay trở lại phòng lấy toàn bộ số tiền rồi viết một lá thư giả điền tên của người con trai bà lão và tìm đến nhà bà. Bà lão nghe tiếng gõ cửa liền mở cửa hỏi: “Xin hỏi khách nhân từ đâu tới đây?”
Chu thư sinh hỏi: “Xin hỏi, đây có phải là Mỗ gia không ạ?”. Bà lão trả lời: “Đúng rồi!” Anh hỏi tiếp: “Xin hỏi nhà bà có phải có người làm việc tại Tứ Xuyên không ạ?”
Bà lão vội vàng trả lời: “Đúng thế!” Rồi mời Chu thư sinh vào nhà. Sau khi anh bước vào trong liền lấy ra 200 lượng bạc và phong thư anh đã viết sẵn rồi đưa cho bà lão; anh nói: “Tôi đến Tứ Xuyên làm ăn đã gặp và trò chuyện cùng con trai của bà. Chuyến hàng này trở về, con trai bà dặn dò mang hộ số bạc cùng phong thư này đến cho bà, xin mời bà nhận lấy ạ!”
Bà lão vô cùng mừng rỡ và hỏi thăm rất nhiều về tình huống của con trai, Chu thư sinh một mực đều nói: “Anh ấy hiện giờ vô cùng tốt, chẳng bao lâu nữa sẽ trở về, trong thư chắc anh ta cũng đã nói rõ. Bây giờ tôi phải rời đi, không có thời gian nói chuyện tỉ mỉ cùng bà được rồi ạ!”
Chu thư sinh trở lại quán trọ và viết thêm một lá thư có nội dung trên đường đi bị cướp mất hết tiền nên hôn sự phải lui lại một thời gian nữa và gửi về quê hương cho người nhà. Sau đó anh ta quay trở lại Gia Hưng để gặp ông chủ.
Hơn một năm sau, Chu thư sinh trên đường về quê lại nghỉ ở quán trọ cũ. Anh tiện thể gặp ông chủ quán hỏi tình cảnh của hai mẹ con bà lão kia giờ thế nào. Ông chủ trả lời với vẻ rất ngạc nhiên:
“Chuyện này lạ thật! Lần trước, sau khi ta kể chuyện của họ cho cậu biết, thế là cùng ngày hôm đó có một vị khách từ phương xa tới mang tin tức của con trai bà và đưa cho bà lão 200 lượng bạc. Bà lão liền hủy hôn sự của con dâu đi. Không lâu sau, con trai bà phát tài trở về, hiện giờ đã thành một phú hộ rồi. Nhưng anh ta nhớ lại là hồi ở Tứ Xuyên cũng không có gửi tiền hay thư về nhà. Chắc là thần linh phù hộ cho bà lão đã thủ tiết nuôi con khôn lớn bao năm vất vả!” Chu thư sinh nghe xong cũng chỉ gật đầu, ngày hôm sau lại lên đường về quê.
Sau khi thành thân xong khoảng một năm, Chu thư sinh lại lên đường đến Gia Hưng làm ăn. Trên đường đi, anh ta lại vào nghỉ chân tại quán trọ cũ. Bởi vì trời mưa nên không thể khởi hành được, bỗng anh bất chợt gặp một bà lão, chính là bà lão năm xưa. Chu thư sinh vội vã trốn về phòng. Một lát sau, một vị tiên sinh ăn mặc sang trọng mời Chu thư sinh đến nhà anh ta. Chu thư sinh từ chối nói: “Chúng ta vốn không quen biết, vì sao lại đột nhiên mời tôi đến nhà anh?”
Vị tiên sinh kia cười nói: “Không có việc gì khác, chỉ là ta có nghe ông chủ quán trọ kể rằng anh có tài về thư pháp. Ta đang muốn gửi đi một lá thư, ta lại không thể tự ghi chép được, người chuyên ghi chép hôm nay lại bận việc cho nên đến đây cầu xin tiên sinh giúp!” Chu thư sinh một mực từ chối không đi nhưng vị kia đã cho người đến ép anh ta phải đi. Chu thư sinh sau khi thảo xong lá thư liền đưa cho viên quan. Chỉ ít phút sau, ở giữa nhà có hai người hầu đặt một chiếc ghế to và trải thảm đỏ, Chu thư sinh ở nhà dưới nhìn thấy cảnh tượng thì rất khó hiểu.
Một lát sau, người hầu dẫn Chu thư sinh ngồi vào cái ghế trang trọng ở giữa nhà, bà lão và người con dâu xưa kia xuất hiện cùng với một người đàn ông, họ đi tới quỳ xuống đất và nói lời: “Tạ ơn ân nhân! Nếu như không có đại ân nhân thì gia đình tôi đâu có được ngày hôm nay!”
Chu thư sinh chối từ: “Chúng ta chỉ là tình cờ gặp nhau, không hiểu sao tiên sinh lại đùa tôi như vậy?”
Vị tiên sinh kia nói: “Ân nhân tự đem bạc và viết thư giao cho mẹ của ta. Ba năm qua, cả nhà ta không một ngày quên ân đức của ân nhân. Ân nhân là người quân tử làm việc thiện không cầu báo đáp nhưng chúng tôi sao có thể yên tâm được đây. Hôm nay may mà được thượng thiên cho chúng ta gặp nhau, khiến cho gia đình chúng tôi không phải ôm tiếc nuối cả đời.”
Sau đó, vị tiên sinh cũng lấy ra hai phong thư đồng thời nhờ ông chủ quán trọ xác minh. Lúc này, Chu thư sinh đành phải thừa nhận mà nói: “Đây chẳng qua là nhất thời nổi lên lòng trắc ẩn, và cũng là thượng thiên xót thương cho hai người cực khổ nên đã mượn tay tôi làm chuyện này, tôi nào dám tranh công!” Sau hôm đó vị tiên sinh cùng Chu thư sinh đã cùng kết nghĩa huynh đệ đồng thời giao cho Chu thư sinh một mảnh đất lớn ở gần quê hương của Chu thư sinh cùng một số vốn lớn để anh ta làm ăn sinh sống.
Vị tiên sinh nói: “Nếu làm ăn tốt cũng đủ để gia đình anh sinh sống ấm no, anh không cần phải đi đến Gia Hưng xa xôi làm ăn, rời xa quê hương nữa.”
Chu thư sinh không đồng ý mà nói: “Ông chủ đối xử với ta rất tốt, ta rời bỏ ông cũng như ruồng bỏ ân huệ của ông ấy, đó là không tốt.”
Nói xong, Chu thư sinh lại từ biệt gia đình họ và lên đường đến Gia Hưng. Chuyện này cuối cùng cũng đến tai ông chủ khiên ông càng tín nhiệm anh ta hơn.
Khi ông chủ qua đời đã để lại một người con trai tuổi còn rất nhỏ. Ông chủ giao lại toàn bộ cửa hiệu cho Chu thư sinh làm ăn, với khế ước rằng sau mười năm thì Chu thư sinh cần giao trả lại vốn cho con trai ông, còn toàn bộ tiền lãi sẽ thuộc về Chu thư sinh. Chu thư sinh sau khi tiếp nhận việc làm ăn, lợi nhuận mà anh ta thu được đã gấp 10 lần ban đầu. Cứ như vậy đến mười năm sau, Chu thư sinh giao trả lại sự nghiệp đồng thời chia đôi phần lãi cho người con trai của ông chủ, vì thế hai gia đình đều trở nên rất giàu có.
Sau này, Chu thư sinh sinh được hai người con trai, người con trai trưởng là Gia Cát vào năm Giáp tuất đã thi đỗ Á nguyên (sau Trạng nguyên), người con trai thứ là Quỳ Cát cũng thi đỗ Á nguyên vào năm Đinh Sửu. Hai người con trai này của ông đều làm quan to ở Viện Hàn Lâm, gia đình ông trở nên rất giàu sang và thịnh vượng.
Minh Hoàng biên dịch
Theo secretchina