An Dương Vương Thục Phán – Phút huy hoàng cuối cùng của thời đại Văn Lang Âu Lạc
“Nguyện có trời cao lồng lộng soi xét, chẳng dám sai lời. Nước Nam trường tồn lưu ở miếu Hùng Vương. Ví bằng vua sau nối nghiệp trái ước phai thề sẽ bị trăng vùi gió dập, trời đất cùng tru diệt.”
Khổng Tử từng dạy rằng: “Độ lượng bao dung, ôn hòa giáo hóa, không báo thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương Nam. Người quân tử ở đấy. Mặc giáp cưỡi ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ cường bạo ở đấy”.
Khởi đầu từ những bộ lạc du mục phương Bắc dần dần lấn chiếm xuống phía Nam, nền văn minh của Trung Hoa không phải ngày một ngày hai mà thành vĩ đại. Nó đã quật khởi thành công trở thành một nền văn minh rực rỡ và lâu dài nhất trên thế giới nhờ biết cách khéo léo hấp thụ những tinh hoa từ các vùng lãnh thổ chiếm đóng, đặc biệt là ở phía Nam, nơi vốn có bề dày văn minh nhiều nghìn năm.
Thời điểm đó nền văn minh Văn Lang hùng vĩ của dân Nam kéo dài suốt 26 thế kỷ rốt cuộc cũng đã đến khúc vĩ thanh của nó, người quân tử Bách Việt cũng đã đi vào quên lãng… An Dương Vương tuy là người đánh bại Văn Lang, nhưng xét cho cùng lại chính là người kế thừa cuối cùng những tinh hoa của dòng dõi các vua Hùng. Chỉ tiếc là ý Trời khó cưỡng, một nền văn minh rực rỡ nhường ấy đã chìm theo dòng nước biển Đông, để lại cho hậu nhân niềm tiếc thương vô cùng.
Đại chiến Văn Lang Âu Lạc, người thừa kế cuối cùng
Nước Văn Lang trải 18 đời vua Hùng đến Tuyền Vương đã không còn hùng mạnh như xưa, vì thế mà An Dương Vương muốn đánh Văn Lang để mở rộng lãnh thổ. Cuộc chiến Văn Lang Âu Lạc thực ra có thể coi như một cuộc nội chiến tranh giành ngôi báu giữa dòng trưởng và dòng thứ. Vì khi còn hùng mạnh, lãnh thổ nhà Văn Lang trải dài từ hồ Động Đình đến Chiêm Thành. Các sắc dân Bách Việt làm chư hầu sống trong đất nước rộng lớn dưới sự cai quản của các vua Hùng, người được Thần khải thị. Điều này ứng với truyền thuyết Long Quân Âu Cơ trăm con lên rừng xuống biển chia nhau cai trị.
Khi nhà Văn Lang dần suy yếu và mất đi các vùng lãnh thổ vào tay phương Bắc, các chư hầu cũng dần dần mạnh lên độc lập và không còn thần phục Văn Lang. An Dương Vương có thể coi là chư hầu mạnh nhất của Văn Lang, vừa là đối thủ vừa là có quan hệ họ hàng. Sau nhiều năm chiến tranh, cuối cùng Thục Phán nhà Âu Lạc đã chiến thắng và trở thành người thừa kế đại thống nhà Văn Lang.
“Hùng Tuyền vương hưởng nước 115 năm rồi nhường ngôi cho rể là Sơn Tinh Tản Viên. Sơn Tinh cố từ không dám nhận. Tuyền vương nói:
– Cơ đồ họ Hùng đã hết, khanh có thể lên thay.
Tản Viên còn do dự chưa quyết thì Thục vương (là chúa Phụ đạo nước Ai Lao, cũng là tông phái Hùng vương) từ xa nghe tin Tuyền vương nhường ngôi cho Tản Viên, bèn đem quân sang đánh Hùng Tuyền vương để xâm chiếm nước Nam. Vua (Tuyền vương) binh hùng tướng mạnh, Thục vương mấy lần bị đánh bại. Vương bảo với Thục vương: “Ta có sức thần, Thục vương không sợ sao?”
Từ đó Tuyền vương bỏ bê không chăm sửa sang võ bị, chỉ đam mê tửu sắc làm vui. Đến khi quân Thục kéo đến tận nơi, vua vẫn còn say khướt chưa tỉnh. Quân lính trở giáo đầu hàng quân Thục.
Hùng Tuyền vương thu họp tàn quân, tuyển thêm dân binh, rồi sai người đưa thư cho Tản Viên, nói: “Thục vương đem quân sang đánh, đã chiếm đô thành của ta, khanh mau đem quân đến cứu viện”
Tản Viên bèn dẫn binh mã thẳng đến Loa Thành, dàn quân đối trận với Thục vương để khuếch trương thanh thế. Mấy hôm sau Tản Viên khuyên Hùng Tuyền vương:
– Họ Hùng hưởng nước kể cũng đã lâu dài. Lòng trời ắt có hạn, khiến cho Thục vương thừa cơ gây hấn xâm lấn nước ta. Vả lại Thục vương vốn là bộ chủ Ai Lao, cũng là dòng phái của tiền hoàng đế. Nay quốc thế không được bình thường, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì một cõi đất phương nam mà cưỡng lại ý Trời, làm hại sinh linh? Vả lại bệ hạ và thần đã có phép thần tiên, không gì hơn là quay về chốn Bồng Hồ, Lãng Uyển, tiêu dao ở làng quê bất lão, thanh nhàn nơi gác phượng lầu rồng, há phải nhiễm bẩn bụi trần, vàng ngọc châu báu cũng chẳng bằng mảy lông, ngọc nữ tiên đồng cũng chỉ mát mắt chốc lát. Trí lực như thế mới thật là cao!
Tuyền vương cho là phải. Rồi Tuyền vương sai đưa thư nhường nước cho Thục vương. Thục vương sai sứ đến tạ ơn. Tuyền vương trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên Sơn Tinh, biến hóa vào cõi hóa sinh bất diệt.
Thục An Dương Vương đã được nhường nước, tưởng nhớ ơn đức trời biển của Hùng Tuyền vương bèn xa giá đến núi Nghĩa Lĩnh cho dựng Dao Đài để làm nơi quốc gia phụng thờ, dựng hai cột đá trong núi, chỉ tay lên trời thề rằng:
– Nguyện trời cao mây xám lồng lộng xét soi: Nước Nam trường tồn trường tại. Ngôi miếu Hùng vương nơi đây nếu vua sau kế trị mà bội ước nhạt thề thì sẽ bị rìu trăng búa gió trừng phạt, không phụ lời thề của tiền nhân.
Đọc lời khấn xong, Thục vương lạy tạ rồi lên xe trở về kinh đô Phong Châu, cho triệu các dòng phái cành vàng lá ngọc của dòng họ Hùng ban cho danh hiệu Trung nghĩa hương (làng Trung nghĩa), cấp cho dân tạo lệ hưởng dụng lâu dài, cấp 500 mẫu ruộng ở gò Nghĩa Lĩnh thuộc bản thôn. Lại cấp cho các cánh ruộng ở nhiều địa phương để thu tô thuế: trên từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, dưới đến các xã ở Việt Trì hàng năm nộp hoa lợi để dùng vào việc đèn hương phụng thờ 18 đời vua Hùng từ Thánh tổ Cao hoàng đế đến các vua kế đời truyền nối.” (Hùng Vương ngọc phả)
Đại chiến quân Tần, Âu Lạc dương uy
Vừa mới kế thừa quốc tộ không lâu, Âu Lạc đã phải đối đầu với kẻ thù mạnh nhất thế giới thời đó là quân nhà Tần. Hiệu úy Đồ Thư vâng lệnh Thủy Hoàng Đế, dẫn 50 vạn quân rầm rập kéo vào nước ta.
Sách Hoài Nam tử chép:
“Thủy Hoàng lại tham sừng tê, ngà voi, phỉ thúy và ngọc chu cơ đất Việt, sai viên úy Đồ Thư điều động 50 vạn quân sĩ, chia thành 5 lộ đại quân: một lộ chặn đỉnh núi Đàm Thành, một lộ phòng thủ quan ải Cửu Nghi, một lộ trú đóng trong thành Phiên Ngung, một lộ tản ra khắp đồng hoang Nam Dã, một lộ tập trung ở cạnh sông Dư Can, binh lính các lộ trong ba năm không cởi áo giáp cung nỏ.”
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, dân Bách Việt phải đối đầu với một đạo quân khổng lồ đến vậy của đế quốc Trung Hoa thống nhất. Họ đã điều động 5 đạo quân tiến vào phương Nam theo 5 đường, không chừa một lối thoát nào cho dân Việt hết. Năm đường tiến quân đó cũng chính là nguồn gốc của tên gọi Ngũ Lĩnh, chứ không phải nghĩa là dãy núi như xưa nay người ta vẫn cho là thế. Với sự trợ giúp đắc lực của một số tướng lãnh người Việt, quân Tần cũng thành công chiếm được nhiều vùng đất phương Nam. Tiêu biểu có thể kể đến viên tướng tên Sử Lộc, được Tần Thủy Hoàng sai đào kênh nối sông Tương với sông Ly, để vận chuyển quân nhu vật tư. Từ năm 219 TCN đến năm 215 TCN, Sử Lộc hoàn thành việc đào kênh, gọi là kênh Linh (Linh Cừ), nối hệ thống sông Trường Giang với hệ thống sông Châu Giang. Quân Tần nhờ đó mà đánh bại quân Tây Âu, giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống.
“Khi Tần Thủy Hoàng sai hiệu úy Đồ Thư dẫn 50 vạn quân, chia làm 5 đạo, tiến đánh Bách Việt, Lộc được giao việc đào kinh ngòi để chuyển vận quân lương. Lộc bèn khơi nguồn từ Dương Sơn, dẫn dòng bắc sông Tương chảy nhập vào sông Sở Dung, lại dẫn hạ lưu sông Kha chảy sang phía nam rồi thông ra biển. Việc chuyển vận quân lương vẫn còn rất cực nhọc, Lộc nghĩ ra cách đắp đá, ngăn chặn nước sông Tương sông Dung cho chảy ngược lên đến 60 dặm, lại đặt 36 cửa sông. Thuyền vào ngăn nào thì đóng cửa sông ngăn ấy lại. Nước chảy dần vào, nâng thuyền lên cao. Mở cửa kế tiếp, thuyền lại sang ngăn kế. Cứ thế kế tiếp, đưa thuyền lên ghềnh xuống thác. Đã tiện cho thuyền bè thông thương, lại lợi cho công việc đồng áng. Lộc gọi cách này là Linh Cừ (ngòi thiêng). Cũng nhờ cách ấy mà giết được vua Tây Âu là Dịch Hu Tống.”
(Bách Việt tiên hiền chí- Âu Đại Nhậm)
Thế nhưng dân Bách Việt vốn đã từng là thần dân của một vương quốc truyền thừa mấy nghìn năm đâu dễ chịu khuất phục. Dưới sự lãnh đạo của An Dương Vương, họ đã sử dụng chiến thuật thanh dã quyết tâm chống cự đến cùng, cho đến khi giết được Đồ Thư và buộc quân Tần phải rút.
“Khi Tần Thủy Hoàng sai hiệu úy Đồ Thư dẫn 50 vạn quân, chia làm 5 đạo, tiến đánh Bách Việt… Người Việt bỏ nhà cửa ruộng vườn mà vào rừng núi hoang vu, thà sống với cầm thú, không chịu sống nhục dưới ách nhà Tần. Ngày ẩn đêm đánh, giết được Đồ Thư. Nhà Tần bèn rút quân về mà gìn giữ biên giới để phòng bị.”
(Bách Việt tiên hiền chí )
An Dương Vương đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến thành công. Sau trận đại chiến này, An Dương Vương đã xây dựng uy tín vô địch trong lòng quân dân Âu Lạc và thay thế hoàn toàn ảnh hưởng còn lại của các vua Hùng.
Đắp thành Cổ Loa, nỏ thần giữ nước
Sau khi phần lớn các tiểu quốc dần dà bị nhà Tần thôn tính, cuối cùng chỉ còn lại nhà Âu Lạc vẫn còn giữ được độc lập sau nhiều năm chiến đấu. Khi nhà Tần sụp đổ, hào kiệt Trung Nguyên các nơi nổi lên, trong đó có Triệu Đà thừa thế mở rộng lãnh thổ và thành lập ra nước Nam Việt. Ngay cả khi nhà Hán đã thống nhất thì vẫn chưa thể tiến vào miền Nam do thế lực Nam Việt còn mạnh.
“Sau khi Hán Cao Đế bình định được thiên hạ, thấy Trung Quốc mới khổ nhục, cực nhọc, nên tha Đà không trị tội. Năm thứ 11 (năm 196 trước Công nguyên), Hán sai Lục Giả sang, nhân tiện phong cho Đà làm Nam Việt Vương, chặt phù để làm tin, cho phép phái sứ giả đi lại với Trung Quốc, bảo phải hòa hợp với Bách Việt, không được gây việc lo ngại ở biên giới phía Nam.” (Sử ký)
Nước Âu Lạc của An Dương Vương giáp giới với nước Nam Việt nên tình thế vô cùng nguy hiểm, luôn phải cảnh giác và tự thân vận động bảo vệ chính mình. Là một vị vua anh minh và thừa kế văn minh Thần truyền, An Dương Vương được nhiều nhân tài và cả Thần trợ giúp để có thể bảo vệ quốc gia. Đó chính là câu chuyện truyền kỳ về thành Cổ Loa và nỏ Thần còn lưu lại đến nay.
Thành trì của vua ở là nơi quy tụ linh khí của quốc gia, cộng với sự bảo hộ của long tộc đối với hoàng gia sẽ hình thành một nền tảng để duy trì vương quyền. Đó là cái gọi là khí số của triều đại, hay tính chính thống của người cai trị. Thành Cổ Loa là một Thần tích vĩ đại cuối cùng triển hiện trên đất Văn Lang.
Tương truyền rằng An Dương Vương xây thành mãi không xong, cứ xây xong là thành đổ, chỉ đến khi được Thần chỉ bảo và cử sứ giả đến giúp mới xây nên.
“Vua An Dương Vương nước âu Lạc là người Ba Thục, họ Thục tên Phán. Nhân vì tổ phụ ngày trước cầu hôn lấy Mỵ Nương là con gái vua Hùng Vương, Hùng Vương không gả cho, bèn mang oán. Phán muốn hoàn thành chí người trước, cử binh đi đánh Hùng Vương, diệt nước Văn Lang, cải tên nước thành âu Lạc, rồi lên làm vua, xây thành ở đất Việt Thường, hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy.
Vua bèn lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần. Ngày mồng 7 tháng 3 bỗng thấy một cụ già từ phương đông tới trước cửa thành mà than rằng: “Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!”
Vua mừng rỡ đón vào trong điện, thi lễ, hỏi rằng: “Ta đắp thành này đã nhiều lần băng lở, tổn nhiều công sức mà không thành, thế là cớ làm sao?” Cụ già đáp: “Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng mới thành công”, nói xong từ biệt ra về.
Hôm sau vua ra cửa đông chờ đợi, chợt thấy một con rùa vàng từ phương đông lại, nổi trên mặt nước, nói sõi tiếng người, tự xưng là sứ giả Thanh Giang, thông tỏ việc trời đất, âm dương, quỷ thần. Vua mừng rỡ nói: “Điều đó chính cụ già đã báo cho ta biết trước”. Bèn rước vào trong thành, mời ngồi trên điện, hỏi vì sao xây thành không được.
Rùa vàng đáp: “Cái tinh khí ở núi này là con vua đời trước, muốn báo thù cho nước. Lại có con gà trống sống ngàn năm, hóa thành yêu tinh ẩn ở núi Thất Diệu. Trong núi có ma, đó là hồn người nhạc công triều đại trước chôn ở đây. Ở bên cạnh, có một quán trọ cho khách vãng lai, chủ quán tên là Ngộ Không, có một người con gái và một con gà vốn là dư khí của quỉ tinh, phàm có khách qua đường nghỉ đêm ở quán thì quỷ tinh lại biến hóa muôn hình vạn trạng để làm hại. Người chết vì thế rất nhiều. Nay con gà trống trắng lại lấy con gái chủ quán, nếu giết được con gà trống thì trấn áp được quỷ tinh, quỷ tinh sẽ tụ âm khí thành yêu, hóa ra con chim cú ngậm lá thư bay lên trên cây chiên đàn tâu cùng thượng đế xin phá thành. Thần sẽ xin cắn rơi lá thư, nhà vua tức tốc lặt lấy, thành sẽ xây được”.
Rùa vàng bảo vua giả làm kẻ hành nhân nghỉ trọ ở quán, để rùa vàng ở phía trên khung cửa. Ngộ Không nói: “Quán này có yêu tinh, đêm thường giết người. Hôm nay trời chưa tối, xin ngài đi mau chớ nghỉ lại”.
Vua cười, nói: “Sống chết có mệnh, ma quỷ làm gì được, ta không sợ”. Bèn cứ nghỉ lại. Đến đêm, quỷ ở ngoài vào, thét lớn: “Kẻ nào ở đây, sao chẳng mau mở cửa?” Rùa vàng hét: “Cứ đóng cửa thì mày làm gì?”. Quỷ bèn biến hóa trăm hình vạn trạng, muôn kế nghìn phương để hòng dọa nạt, sau cùng cũng chẳng nổi. Đến lúc gà gáy sáng, quỷ tinh tẩu tán. Rùa vàng cùng vua đuổi theo, tới núi Thất Diệu, quỉ tinh thu hình biến mất. Vua bèn quay về quán. Sáng hôm sau, chủ quán sai người đến lượm xác khách trọ để chôn, thấy vua vẫn cười nói hớn hở, bèn cùng chạy tới lạy mà nói rằng: “Ngài được như thế tất là thánh nhân, vậy xin ban thuốc thần để cứu sinh dân”.
Vua nói: “Nhà ngươi giết con gà trắng mà tế thần, quỷ tinh sẽ tan hết”.
Ngộ Không y lời, đem gà trắng ra giết, người con gái lập tức quay ra chết.
Vua bèn sai đào ở núi Thất Diệu, lấy được nhiều nhạc khí cổ và xương cốt, đốt tan thành tro đem đổ xuống dòng sông. Trời gần tối, vua và rùa vàng lên núi Việt Thường thấy quỷ tinh đã biến thành con chim cú sáu chân, ngậm lá thư bay lên cây chiên đàn, rùa vàng biến thành con chuột đen theo sau, cắn vào chân cú, lá thư rơi xuống đất, vua vội nhặt lấy, lá thư đã bị nhấm rách quá nửa. Từ đó quỷ tinh bị diệt. Thành xây nửa tháng thì xong. Thành đó rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa Thành, còn gọi là Tư Long thành, người đời Đường gọi là Côn Lôn thành, lấy lẽ rằng nó cao lắm.
Rùa vàng ở lại ba năm, rồi từ biệt ra về. Vua cảm tạ nói: “Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”.
Rùa vàng đáp: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, vua có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Song vua ước muốn, ta có tiếc chi”. Bèn tháo vuốt đưa cho nhà vua mà nói: “Đem vật này làm lẫy nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa”. Dứt lời, trở về biển đông. Vua sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt làm nẫy. Gọi là Linh Quang Kim Quá thần cơ. Về sau Triệu Vương là Đà cử binh nam xâm, cùng vua giao chiến. Vua lấy nỏ thần ra bắn, quân Đà thua lớn, chạy về Trâu Sơn cầm cự với nhà vua, không dám đối chiến, bèn xin hòa. Vua cả mừng, hẹn rằng phía bắc sông Tiểu Giang thuộc Triệu Đà cai trị, phía nam thì vua cai trị.” (Lĩnh Nam Chích Quái)
Nỏ thần bị hủy, ngàn năm mất nước
Dẫu cho An Dương Vương là quân chủ kế thừa của Hùng Vương, bản thân ông cũng là người cai trị nhân đức và tài giỏi. Nhưng khí số quân chủ của tộc Văn Lang sau 2600 năm đã tận, rốt cục ông cũng trúng kế mà dẫn đến nước mất nhà tan, khởi đầu cho nghìn năm đen tối khốn cùng của dân tộc. Câu chuyện tình ai oán Mị Châu Trọng Thủy là huyền sử đẫm máu nói về đoạn sử bi thương này.
“Không bao lâu, Đà cầu hôn. Vua vô tình gả con gái là Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thủy. Trọng Thủy dỗ Mị Châu cho xem trộm nỏ thần rồi ngầm làm một cái lẫy nỏ khác thay vuốt rùa vàng, nói dối là về phương bắc thăm cha. Nói rằng: “Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, bắc nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?”.
Đáp: “Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt ly thì đau đớn khôn xiết, thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau”.
Trọng Thủy mang lẫy thần về nước. Đà được lẫy cả mừng, bèn cử binh sang đánh. Vua cậy có nỏ thần, vẫn điềm nhiên đánh cờ, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần sao?”
Quân Đà tiến sát, vua cầm lấy nỏ, thấy lẫy thần đã mất bèn bỏ chạy. Vua đặt Mỵ Châu ngồi đằng sau ngựa rồi cùng nhau chạy về phương Nam.
Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng mà đuổi. Vua chạy tới bờ bể, đường cùng, không có thuyền qua bèn kêu rằng: “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu”.
Rùa vàng hiện lên mặt nước, thét lớn: “Kẻ ngồi sau ngựa chính là giặc đó!”.
Vua bèn tuốt kiếm chém Mị Châu, Mị Châu khấn rằng: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại lại cha, chết đi sẽ biến thành hạt bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để tẩy sạch mối nhục thù”.
Mị Châu chết ở bờ bể, máu chảy xuống nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống bể. Đời truyền rằng nơi đó là đất Dạ Sơn, tổng Cao Xá, phủ Diễn Châu. Quân Đà kéo tới đấy không thấy bóng vết gì, chỉ còn lại xác Mị Châu. Trọng Thủy ôm xác vợ đem về táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. Mị Châu đã chết, Trọng Thủy thương tiếc khôn cùng, khi đi tắm tưởng như thấy bóng dáng Mị Châu, bèn lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò ngọc ở biển đông lấy nước giếng này mà rửa thì thấy trong sáng, nhân kiêng tên Mị Châu cho nên gọi ngọc minh châu là đại cữu và tiểu cữu.” (Lĩnh Nam Chích Quái)
Lời bàn:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt.
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. (Xuân Diệu)
Một nền văn minh vĩ đại 26 thế kỷ như Văn Lang không thể nào lại cứ thế mà vô thanh vô tức biến mất trong lịch sử. Khúc vĩ thanh cuối cùng của nó tuy đau đớn nhưng lại vô cùng huy hoàng và bi ai, chính là được viết bởi An Dương Vương và nhà Âu Lạc, những người thừa kế cuối cùng của văn minh Thần truyền phương Nam. Những gì khắc vào đá có lẽ sẽ vỡ mà mất, khắc vào gỗ rồi cũng sẽ tiêu mất. Chỉ có những câu chuyện truyền miệng của dân gian là sống mãi. Nền văn minh Thần truyền vĩ đại của con cháu Long Quân kia có lẽ nhờ vào những truyền kỳ về sự tích giữ nước anh hùng của vua tôi nhà Âu Lạc hay câu chuyện tình đẫm nước mắt và máu của nàng Mị Châu mà lưu truyền mãi mãi về sau. Xin tạ ơn các bậc tiên tổ Âu Lạc, những vĩ nhân đã hoàn thành xuất sắc vai trò của mình trong lịch sử để con cháu qua bao năm dài chiến tranh mất mát vẫn còn đó mà biết về nguồn gốc của dân tộc đời đời.
Minh Bảo – ntdvn