Vào thời nhà Đường, tu luyện Đạo gia đã được hoằng dương rộng rãi, người cầu Đạo và tìm hiểu Đạo vô cùng nhiều. Danh y Tôn Tư Mạc đã dành cả đời của mình để tu Đạo và hành nghề y, tạo phúc cho thế nhân nhiều không kể xiết, được hậu thế gọi là “Tôn chân nhân” và “Dược Vương”. Bên cạnh Thái Tông không thiếu phụ tá là những chân nhân tu luyện Đạo gia, ví dụ như Vương Viễn Tri, Tiết Di, Lý Thuần Phong, Viên Thiên Cang (Cương) v.v. đều là người tu Đạo nổi tiếng thời ấy.
Đường Cao Tổ Lý Uyên tôn sùng Đạo gia. Các đạo sĩ Kỳ Bình Định, Vương Viễn Tri tuyên bố tuân theo ý chỉ của Lão Quân, bí mật nói phù mệnh (các dấu hiệu mà Trời xanh báo trước cho Đế vương) cho ông. Nói đến truyền thuyết Lão Tử bảo vệ họ Lý, thì từ khi Lý Uyên khởi binh cho đến khi lên ngôi, một mực không ngừng.
Theo ghi chép trong “Cựu Đường thư . Cao tổ bản kỷ”, “Hỗn nguyên thánh kỷ” và “Lịch đại sùng đạo ký”: Năm Đại Nghiệp thứ 13 (năm 617), Lý Uyên cùng với Vũ nha lang tướng (chức quan) Tống Lão Sinh nhà Tùy giao chiến tại ấp Hoắc, vừa hay “mưa dầm cả 10 ngày, thẹn vì số phận không cho”, nhưng vào lúc này, chợt có Hoắc Sơn Thần, tự xưng là tuân theo lệnh của Thái Thượng Lão Quân đến nói với Lý Uyên “Nhất định sẽ có được thiên hạ”, hơn nữa “tháng 8 mưa ngừng”. Như vậy, đến “tháng 8 năm Tân Tỵ, Cao Tổ dẫn quân vào ấp Hoắc, chém Tống Lão Sinh, bình định ấp Hoắc”.
“Hỗn nguyên thánh ký” cũng nói, Lý Uyên “Năm Đại Nghiệp thứ 13, năm Đinh Sửu, Lão Quân ở Chung Nam Sơn, bảo với sơn nhân Lý Thuần Phong nói: Đường Công nhận được Thiên mệnh”.
Đường Cao Tổ tín phụng Đạo gia là vì chính sách sùng đạo của Hoàng gia, cũng được Thái Tông kế thừa.
Trước lúc Thái Tông đăng cơ, thường qua lại rất thân mật với các Đạo sĩ. Lúc ấy, vì Pháp Lâm dẫn đầu tín đồ Phật giáo ủng hộ Lý Kiến Thành, còn Vương Viễn Tri dẫn đầu tín đồ Đạo giáo ủng hộ Thái Tông. Vương Viễn Tri là người ở Dương Châu thời kỳ Tùy Đường. Mẹ của ông nằm ngủ ban ngày thì mộng thấy phượng hoàng đậu trên người, vì vậy mà có thai, có vị tăng nhân từng nói với cha của ông, rằng con trai sau khi sinh đúng là một đại phương sĩ (chỉ người tu Đạo).
Vương Viễn Tri từ nhỏ thông minh lanh lợi, học rộng tài cao, bái minh sư cầu học tu đạo, nổi danh khắp triều đình. Tùy Dương Đế khi còn làm Tấn Vương, tại Dương Châu đã triệu kiến Vương Viễn Tri. Tóc của Vương Viễn Tri lúc trắng lúc đen, khiến mọi người kinh ngạc.
Tùy Dương Đế sau khi đăng cơ, đã lấy lễ của đệ tử để đối đãi với ông, hỏi ông những điều liên quan đến chuyện thần tiên. Lúc Tùy Dương Đế muốn đi Dương Châu, Vương Viễn Tri nói ông không nên rời khỏi kinh thành lúc này, Tùy Dương Đế không nghe, cuối cùng tại Dương Châu bị bộ hạ phát động binh biến mà treo cổ.
Lúc Đường Cao Tổ Lý Uyên còn chưa hiển đạt, Vương Viễn Tri liền âm thầm đem thiên mệnh tiết lộ cho ông. Năm Vũ Đức thứ 4 (năm 621), lúc Thái Tông ở Lạc Dương, đã đặc biệt đi thăm hỏi Vương Viễn Tri, trụ trì Ngọc Thanh quán. Lúc ấy, Thái Tông và Phòng Huyền Linh mặc quần áo dân dã đến thăm Vương Viễn Tri.
Vương Viễn Tri ban đầu cũng không nhận ra hai người này, lúc đón tiếp họ thì nói: “Trong này có Thánh nhân, có phải là Tần Vương không?” Thái Tông thất kinh, vị cao nhân này quả nhiên danh bất hư truyền, vì vậy đã nói thực cho ông biết.
Vương Viễn Tri nói: “Người sắp làm thái bình thiên tử, nhất định phải tự trân trọng”. Thái Tông sau khi lên ngôi, tiếp tục thi hành chính sách tôn sùng Đạo, đối với Vương Viễn Tri thì rất coi trọng, muốn ủy thác trọng trách, chẳng qua là Vương Viễn Tri liên tục từ chối.
Cho đến năm Trinh Quán thứ 9 (năm 635), khi dự ngôn của Vương Viễn Tri đã sớm trở thành sự thực, mà hết thảy đã trở thành chuyện cũ, Thái Tông vẫn hoài niệm Vương Viễn Tri. Ông vì vậy mà đã công khai ban bố một chiếu thư, thể hiện lòng hoài niệm đối với vị thế ngoại cao nhân này.
Đạo sĩ Tiết Di ở Hoạt Châu, cũng bí mật nói các phù mệnh cho Thái Tông. Đối với Tiết Di, Thái Tông trước khi đăng cơ đã trao cho ông chức Thái sử thừa, Luy thiên thái sử lệnh. Trong năm Trinh Quán, Tiết Di dâng tấu xin làm Đạo sĩ. Thái Tông vì vậy mà đã thiết lập Tử Phủ quán tại núi Cửu Tông.
Thái Tông trong năm Trinh Quán thứ 6 (năm 632), ra lệnh sửa miếu Thái Thượng Lão Quân ở Bạc Châu. Thái Tông cũng tự mình tham gia nghiên cứu và hoằng dương “Đạo đức kinh”. Năm Trinh Quán thứ 13 (năm 639), Thái Tông ban chiếu cho Quốc tử tế tửu Khổng Dĩnh Đạt, sa môn Tuệ Tịnh, đạo sĩ Thái Hoảng, vào Hoàng Văn điện đàm luận Nho, Thích, Đạo. Năm Trinh Quán thứ 16 (năm 642), Cao Ly cho sứ giả đến nhà Đường học Đạo giáo, Thái Tông cho 8 người đạo sĩ Tự Đạt đi trước để giảng giải kinh sách Đạo giáo.
Trong lúc quan hệ qua lại với các nước ở Tây Vực, có nước tên là Già Một Lộ. Vương Huyền Sách đến nước này, vua nước này sai dâng lên báu vật, đồ quý hiếm và bản đồ, cũng xin ảnh của Lão Tử và “Đạo đức kinh”. Năm Trinh Quán thứ 21 (năm 647), Thái Tông hạ lệnh cho Huyền Trang và đạo sĩ Thành Huyền Anh dịch “Đạo đức kinh” ra tiếng Phạn, từ đó Vương Huyền Sách đã đem “Đạo đức kinh” của Lão Tử truyền nhập vào các nước ở Tây Vực (ngày nay là Ấn Độ).
Tiểu Phàm biên dịch
Theo: Epochtimes