Bí ẩn cây phất trần của Trấn Nguyên Đại Tiên, một mình đương cả ba binh khí của Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng
“Thần binh ba món bao vây,
Phất trần một chiếc tung bay oai hùng.
Che sau đỡ trước ung dung,
Đỡ trên gạt dưới vững lòng tự tin”.
Cây phất trần của Trấn Nguyên Đại Tiên vì sao lại nhiệm màu đến vậy? Bài viết xin mạo muội đưa ra kiến giải hạn hẹp, hy vọng cùng quý độc giả chiêm nghiệm nội hàm bao la của văn hóa Thần truyền.
Khi bốn thầy trò Đường Tăng đi qua Ngũ Trang đạo quán ở núi Vạn Thọ, hai tiểu đồng của Trấn Nguyên Đại Tiên vâng lời sư phụ dặn dò đã mang hai trái nhân sâm quý tới mời Đường Tăng. Nhưng vì loại quả này trông tựa đứa trẻ sơ sinh nên Đường Tăng một mực khước từ. Hai tiểu đồng không còn cách nào khác, đành quay về phòng, chia nhau mỗi người một quả.
Bí mật này chẳng may lọt vào tai Trư Bát Giới. Bản tính háu ăn, Bát Giới xúi giục Ngộ Không hái trộm nhân sâm cho biết mùi vị. Sau khi phát hiện, hai tiểu đồng của Trấn Nguyên Tử đã buông lời nhục mạ cả bốn thầy trò, từ đó mà dẫn đến sự việc đáng tiếc: Tôn Ngộ Không đại náo Ngũ Trang quán, đạp đổ cây nhân sâm.
Hai tiểu đồng phát hiện ra, bèn lập kế khoá chặt thầy trò Đường Tăng ở trong phòng, chờ sư phụ về xử trị. Nhờ phép thuật của Tôn Hành Giả, mấy thầy trò đang đêm trốn đi. Trấn Nguyên Đại Tiên trở về, biết chuyện liền đuổi theo.
‘Thần binh ba món bao vây, Phất trần một chiếc tung bay oai hùng’
Trấn Nguyên Đại Tiên hóa thành một nhà sư lang thang, thử thăm dò thầy trò Đường Tăng. Ngộ Không sợ lộ chuyện, liền nói dối rằng mình không đi qua Ngũ Trang quán. Tây du ký, hồi 25 có viết:
“Đại Tiên chỉ thẳng vào mặt nói:
– Con khỉ hỗn láo kia, nhà ngươi định giấu ai nữa! Chính nhà ngươi ở quán của ta, quật đổ cây nhân sâm của ta, rồi đang đêm chạy trốn đến đây, còn vờ vĩnh gì! Chớ có chạy, quay lại đền cây cho ta!
Hành Giả nghe nói, trong lòng giận dữ, rút luôn gậy sắt, chẳng cần phân bua, nhằm đầu Đại Tiên bổ xuống. Đại Tiên nghiêng mình tránh, nhảy phắt lên mây. Hành Giả cũng nhảy lên, đuổi theo. Trên không trung, Đại Tiên hiện nguyên hình:
Đầu đội mũ vàng óng,
Mình mặc áo cánh tiên.
Gót chân giày nhẹ bước,
Bên mình dải tơ buông.
Dáng dấp như đạo sĩ,
Mặt mũi đẹp thần tiên,
Ba chòm râu quanh mép.
Hai món tóc đôi bên,
Đánh nhau không khí giới,
Phất trần nhẹ vung lên.
Hành Giả chẳng biết thấp cao, vung gậy đánh bừa. Đại Tiên cũng giơ phất trần che phải đỡ trái. Hai người đánh nhau trong ba hiệp, Đại Tiên bèn dùng phép “càn khôn trong tay áo” đứng trên tầng mây, nhẹ nhàng vung tay áo đón gió, tay áo rộng tỏa ra khắp mặt đất, úp chụp lấy cả bốn thầy trò và con ngựa”.
Thầy trò Đường Tăng bị bắt rồi, về sau Tôn Ngộ Không lại làm phép biến bốn cây liễu thế thân cho bốn người, rồi cả đoàn đang đêm lẻn đi phen nữa. Trấn Nguyên Đại Tiên biết được, đuổi theo tức thì, và lại xảy ra một trận kịch chiến nữa:
“Đại Tiên từ tầng mây nhảy xuống, quát:
– Tôn Hành Giả chạy đi đâu! Trả cây nhân sâm cho ta!
Bát Giới nghe vậy, nói:
– Hỏng rồi, địch thủ lại đến rồi!
Hành Giả nói:
– Sư phụ hãy gói “chữ thiện” lại để chúng con dùng đòn hiểm kết liễu đời hắn, mới đi thoát được.
Đường Tăng nghe nói, run rẩy sợ hãi, chưa kịp trả lời, thì Sa Tăng đã rút bảo trượng, Bát Giới vung đinh ba, Đại Thánh múa gậy sắt, nhất tề xông lên, vây chặt lấy Đại Tiên trên không trung, lao vào đánh tới tấp. Trận đấu rất quyết liệt. Có bài thơ làm chứng rằng:
Ngộ Không chẳng biết Đại Tiên,
Đồng Quân Dữ Thế đạo huyền diệu thay!
Thần binh ba món bao vây,
Phất trần một chiếc tung bay oai hùng.
Che sau đỡ trước ung dung,
Đỡ trên gạt dưới vững lòng tự tin.
Trốn đêm sáng lại bắt liền,
Bao giờ mới được lên đường sang Tây.
Ba anh em, mỗi người một loại binh khí cùng xông cả vào đánh. Vị Đại Tiên vung phất trần đón đỡ. Đánh nhau được nửa tiếng, Đại Tiên vung rộng tay áo, lại chụp gọn cả bốn thầy trò, cùng con ngựa, hành lý vào trong tay áo như lần trước, rồi cưỡi mây trở về quán”.
Trong hai lần giao chiến này, Trấn Nguyên Đại Tiên chẳng cần dùng đến vũ khí, chỉ một cây phất trần mảnh nhẹ là có thể ung dung gạt sau đỡ trước, chế ngự ba món vũ khí của Ngộ Không, Bát Giới, Sa Tăng. Trong đó, gậy Như Ý vốn là khối thần thiết được Thái Thượng Lão Quân chín lần nấu luyện, pháp lực phi thường. Hai đầu bịt vàng, ở giữa là đoạn ô thiết có khắc hàng chữ “Như Ý Kim Cô Bổng, một vạn ba ngàn năm trăm cân”; có thể tùy tâm dài ngắn, biến hóa vi châm, lại có thể đỉnh thiên lập địa, chống trời chống đất, nhập giang hà hồ hải, khi lũ lụt lại có thể bình định về sau. Bởi vậy, lúc thiên hạ hồng thủy phiếm lạm, Đại Vũ đã đem Kim Cô Bổng đi trị thủy, sau đó ném vào Đông Hải, lấy ý Hải Hà vĩnh viễn cố, từ đó có tên gọi là Định Hải Thần Châm.
Cây đinh ba của Bát Giới cũng có lai lịch phi thường, là thứ binh khí do chính tay Thái Thượng Lão Quân dùng thần băng thiết rèn nên, sau lại được Yết Đế năm phương gia trì. Còn bảo trượng hàng yêu của Sa Tăng nặng 5.048 cân, uy vũ bất phàm. Vậy vì sao ba thứ binh khí rắn chắc nặng nề này lại không đọ nổi cây phất trần vừa mềm vừa nhẹ của Trấn Nguyên Đại Tiên?
Pháp khí của Tiên gia
Trong “Uyên Giám Loại Hàm” cũng có một câu chuyện liên quan đến phất trần như sau: Một ngày, Lã Động Tân thân mang Đồ Long bảo kiếm, lưng đeo hồ lô kim đan, tay cầm phất trần cán ngọc, dùng hình tượng đạo nhân vân du đến bờ Nam sông Hoàng Hà, gặp được Tào Quốc Cữu đến từ Biện Kinh đang muốn đến núi Chung Nam cầu tiên học đạo, lúc đó chuẩn bị lên thuyền qua sông. Lã Động Tân vung phất trần một cái, Tào Quốc Cữu vừa chớp mắt, liền cảm thấy gió thổi qua hai nách của mình, mở mắt ra nhìn thì thấy mình đã bay qua sông Hoàng Hà, rồi đáp xuống bờ Bắc.
Chữ “phất” nghĩa là “phủi, quét”, chữ “trần” nghĩa là “bụi”, cây phất trần vốn là vật dùng để phủi bụi, đuổi muỗi mòng. Giới tu luyện thường gọi thế gian con người là “trần thế”, là “cõi hồng trần”. Các danh sĩ trong lịch sử cũng thường dùng từ “trần” đề miêu tả thế gian, như trong “Tây đô phú” của Ban Cố viết: “Hồng trần bốn phía, mây khói nối liền”; trong “Độ môn tự” của Nguyên Chẩn viết: “Tâm dù hiểu rõ, trần thế khổ bập bùng”.
Như vậy, có thể thấy phất trần trong văn hóa của Đạo gia và Phật gia mang hàm ý phủi sạch bụi trần, dẫn dắt thế nhân buông bỏ dục vọng ô uế, bước trên con đường phản bổn quy chân. Vì thế, cây phất trần là một pháp khí có uy lực vô biên, kết tinh từ công phu tu luyện của các vị Thần Tiên. Uy lực của nó không thể đánh giá qua vẻ bề ngoài mỏng manh mà con mắt thịt nhìn thấy được.
Ở một tầng nghĩa khác, cây phất trần mềm mại tượng trưng cho lòng từ bi, ôn nhu của người tu luyện, đó là đức ‘Thiện’. Đối mặt với các thứ binh khí sắc bén nặng nề cũng như đối mặt với sự đả kích, tấn công, nhục mạ của người đời; khi ấy tâm lương thiện, từ bi có thể bảo hộ người tu luyện, hoá giải hiềm khích oán hờn, biến nguy thành an.
Tương tự, Trấn Nguyên Đại Tiên có thể thâu gọn bốn thầy trò vào tay áo rộng, tay áo rộng biểu tượng cho lòng khoan dung độ lượng, “hữu dung nãi đại” như biển cả. Đó là đức ‘Nhẫn’.
Trấn Nguyên Tử là tổ sư của các địa Tiên, vốn đã rũ sạch thất tình lục dục của người phàm, vậy nên thực ra ông không phải là tức tối Ngộ Không quật ngã cây nhân sâm mà hai lần giao chiến. Ông chỉ muốn thầy trò Đường Tăng ghi nhớ bài học này: rằng đã làm người tu hành thì phải thật thà, không thể nói dối; làm việc cần đường đường chính chính, không được lén lút cửa sau. Đó cũng là chữ ‘Chân’ mà Đạo gia tôn thờ.
Kết thúc câu chuyện, Quán Âm Bồ Tát rưới nước cam lồ hồi sinh cây nhân sâm, Trấn Nguyên Đại Tiên cùng Tôn Hành Giả kết làm anh em. Một mối duyên này được thiện giải, âu cũng nhờ có ‘Chân – Thiện – Nhẫn’ vậy.
Nguồn: DKN