Đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni đã chờ đợi 2500 năm để hôm nay trao lại hai thứ cho một người
Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn; bằng trí nhớ của mình, các đồ tử đồ tôn của Ngài đã ghi chép lại những lời Đức Phật dạy khi còn tại thế, trở thành kinh sách đang lưu truyền trong Phật giáo ngày nay. Trong đó, có một chi tiết đặc biệt, đó là 2500 năm sau, đại đệ tử Ma Ha Ca Diếp vẫn còn tại thế để thực hiện một sứ mệnh đặc biệt.
Truyền thuyết kể rằng, Đại Ca Diếp sống thọ hơn 100 tuổi và cảm thấy chán ngấy thế gian bại hoại và vô thường này. Cuối cùng, Ông đi đến Kê Túc Sơn (dãy núi có 3 đỉnh, tựa như hình chân gà), cách Vương Xá thành về phía Tây Nam hơn 8 dặm.
Đại Ca Diếp ngồi trong lưu vực các đỉnh núi và phát nguyện: “Ta sẽ dùng Thần Thông để giữ thân thể này bất hoại, lấy phân phủ lên y phục để không ai muốn đến gần. Chờ đến khi Phật Di Lặc giáng thế độ nhân, ta sẽ đem tăng bào và bát khất thực của Đức Thế Tôn đến dâng cho Ngài, nguyện một lòng giúp Ngài giáo hoá chúng sinh”.
Trong “Đại Đường Tây vực kí” của pháp sư Huyền Trang có ghi lại: “Ca Diếp thừa chỉ chủ trì Chính Pháp. Vào năm thứ 20, vì chán ngán thế gian vô thường, Ngài đã đi đến Kê Túc Sơn nhập tịch”.
Tương truyền, quốc vương A Xà Thế khi hay tin Đại Ca Diếp đã nhập niết bàn đã rất đau buồn, ông lặn lội đến tận nơi để tỏ lòng thành kính.
Đột nhiên khi ấy, ba đỉnh núi bỗng nứt ra, hình dáng tựa như hoa sen đang khai mở. Quốc vương bỗng thấy tôn giả Ma Ha Ca Diếp đang ngồi đả toạ nhập định, toàn thân phủ đầy Thiên Hoa – loài hoa chỉ có ở trên cõi Trời – vô cùng trang nghiêm, thánh khiết. Khi quốc vương rời đi thì các đỉnh núi cũng tự động khép lại.
Theo những ghi chép trong kinh điển Phật giáo thưở còn sơ khai. Đến hiện nay, tôn giả Ca Diếp vẫn đang nhập định tại núi Kê Túc, giữ gìn y bát của Phật Thích Ca Mâu Ni, đợi đến khi Đức Phật Di Lặc đản sinh ở thế giới Ta Bà thì truyền cấp lại cho Ngài.
Tại Kê Túc Sơn, có vách đá Hoa Thủ Môn nằm ở phía Tây Nam ngọn núi Thiên Trụ – ngọn núi cao nhất ở đây. Đó là một vách đá tự nhiên, dựng thẳng dốc, độ sâu ngàn trượng, trông như một cổng đá lớn được khảm trên vách đá.
Cổng Hoa Thủ Môn cao 40 mét, rộng 20 mét, ở giữa có một vết nứt thẳng đứng chia bức tường đá ra làm hai nửa, trông như 2 cánh cửa 2 bên. Những tảng đá bằng nhau được treo giữa “cổng”, gọi là “khoá đá”. Tương truyền, tôn giả Ma Ha Ca Diếp nhập định bên trong “cổng đá” này.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự đoán rằng. Vào thời kỳ mạt Pháp, Chính Pháp của Ngài sẽ không còn độ nhân được nữa. Lúc này, sẽ có “Vạn Vương Chi Vương”, lấy Phật hiệu Di Lặc hạ thế cứu độ chúng sinh, hồng truyền một pháp môn tu luyện bất diệt trong những thời khắc cuối cùng. Đó chính là Chuyển Luân Thánh Vương mà Phật Thích Ca nhắc đến với các đệ tử.
Thực tế, không chỉ trong kinh sách Phật giáo mới nhắc đến chi tiết này. Trong thời đại Minh triều, khai quốc thần công Lưu Bá Ôn cũng đã từng tiên đoán, 2500 năm sau sẽ có Đức Phật Di Lặc hạ thế độ nhân. Trong “Thiêu Bính Ca” có một cuộc hội thoại giữa ông và Minh Thành Tổ nhắc đến sự kiện quan trọng này.
Minh Thành Tổ Chu Nguyên Chương ngầm hiểu Lưu Bá Ôn là người thông tuệ lý số, am hiểu thiên văn nên đã dò hỏi ông về vận mệnh của đất nước. Lưu Bá Ôn đã nói rất nhiều về tương lai của Trung Hoa. Nhưng Minh Thành Tổ vẫn thắc mắc rất nhiều điều.
Lưu Bá Ôn biết rõ mỗi triều đại đều tự có định số, thiên cơ cũng là không thể tiết lộ nhiều hơn nữa. Nhưng là một thần tử, thật khó để cho ông thoái thác các câu hỏi của bậc quân vương.
Không còn cách nào khác, Lưu Bá Ôn bèn sáng tác ra một đoạn thơ hàm ý thâm sâu, vừa để tuân mệnh Thiên tử và cũng là truyền lại cho nhân loại một dự ngôn tiên tri chính xác vào thời mạt Pháp.
Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu một đoạn đối thoại giữa Minh Thái Tổ và Lưu Bá Ôn, cho thấy luận thuật của ông vô cùng xuất chúng:
Hoàng đế hỏi: “Vào thời khắc cuối cùng, ai sẽ là người truyền Đại Đạo?”.
Lưu Bá Ôn đáp: “Bẩm hoàng thượng:
“Bất tướng lai bất tướng đạo
Đầu đái tứ lưỡng dương nhung mạo
Chân Phật bất tại tự viện nội
Tha chưởng Di Lặc nguyên đầu giáo”
(Dịch nghĩa)
“Không tướng tăng cũng chẳng tướng đạo,
Đầu đội mũ lông cừu nặng bốn lạng.
Chân Phật không ở trong ngôi chùa
Ngài là Di Lặc nguyên đầu giáo”
Hoàng Đế hỏi: “Vậy Ngài sẽ hạ thế ở đâu?”.
Lưu Bá Ôn đáp: “Bẩm Hoàng Thượng. Vị giáo chủ trong tương lai hạ phàm không phải tại tể phủ của quan chức, cũng không phải làm Thái Tử trong hoàng cung, không phải trong tăng môn hay đạo viện, mà Ngài sẽ giáng sinh trong một ngôi nhà thường dân nghèo khó, và rải “vàng kim” khắp Yên Nam Triệu Bắc”.
Hoàng Đế tiếp tục hỏi: “Còn nhà Thanh sẽ tận như thế nào? Khanh hãy giải thích để hậu thế còn được tỏ tường”.
Lưu Bá Ôn đáp: “Thần không thể tiết lộ quá nhiều. Nhưng hải vận chưa khai thì Đại Thanh ổn định, hải vận khai rồi thì động đến binh đao. Thuận theo đó mà khai nữa, thì Lão Thuỷ ắt sẽ quay về kinh thành”.
Hoàng đế thắc mắc: “Lão Thuỷ mang đến điều gì?”.
Lưu Bá Ôn đáp: “Có có có. Chúng Đạo đều sẽ tu luyện chân chính, lớn biến thành nhỏ, già biến thành trẻ. Nhưng hoà thượng lại cặp kè giai nhân. Thật đáng cười, thật đáng cười, thời ấy tăng nhân rồi sẽ lấy vợ”.
Hoàng đế hỏi: “Khanh nghĩ gì về Đạo của thời đó?”.
Lưu Bá Ôn thưa rằng: “Vào thời khắc cuối cùng, vạn tổ hạ giới, nghìn Phật lâm phàm, phổ thiên Tinh Đẩu, La Hán quần Chân, mãn thiên Bồ Tát đều không thể thoát kiếp nạn này, nên phải hạ thế để nghe truyền thụ và đồng hoá với Pháp. Khi vị Phật tương lai truyền Đạo, từ bên dưới mà thuyết Pháp, Thiên thượng Thiên hạ chư Phật chư Tổ nếu không ngộ đạo để gặp con đường Kim Tuyến thì tai hoạ khó thoát, bị tước quả vị, cuối cùng bị phong ấn hết 81 kiếp nạn”.
Các kinh điển Phật giáo cũng ghi lại rằng, Đức Chuyển Luân Thánh Vương mang theo 32 điểm tướng mạo và 7 điều quý giá của Phật. Ngài trị vì thế giới bằng cách chuyển Bánh xe Pháp dựa vào chính nghĩa và công lý, thay vì vũ lực.
Và ngày mà Ưu Đàm Bà La Hoa khai nở, cũng chính là ngày Chuyển Luân Thánh Vương giáng thế, truyền Pháp độ nhân.
Trong “Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn” quyển 4 và kinh “Huệ Lâm Âm Nghĩa” quyển 8 của Phật gia đề cập đại ý: Ưu Đàm Bà La trong tiếng Phạn – nghĩa là một loài hoa mang điềm lành từ Thiên Thượng, phải 3000 năm mới nở một lần. Nếu một Đấng Tối Cao hoặc Chuyển Luân Thánh Vương hạ xuống thế gian con người, loài hoa này sẽ xuất hiện.
Hôm nay, Ưu Đàm Bà La Hoa đã khai nở khắp nơi trên thế giới, tôn giả Ma Ha Ca Diếp đang nhập định trong “cổng đá” nhất định cũng đã biết. Ngài ấy chắc chắn sẽ tìm được vị Phật Di Lặc để trao y bát của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hoàn thành sứ mệnh đã chờ đợi trong suốt 2500 năm.
Viên Minh biên dịch
Nguồn: soundofhope