Đạo trời công bằng, chỉ có hành thiện mới để lại tiếng thơm muôn đời
Đối với rất nhiều người, vinh quang trong đời không phải làm quan chức lớn, kiếm được bộn tiền mà là tạo phúc được cho thiên hạ bao nhiêu, gieo mầm thiện lành được bao xa.
Từ bỏ sự nghiệp lớn để hành thiện tích đức
Thế kỷ 17, Maria Gaetana Agnesi là một kỳ tài toán học xuất sinh ở Italia. Năm 7 tuổi bà đã thông hiểu 7 loại ngôn ngữ, đến năm 20 tuổi, người cha giàu có đã tài trợ cho con gái mình xuất bản những bài luận văn. Ra đời 191 bài tiểu luận với nội dung liên quan đến triết học, vật lý, hóa học, sinh học, khoáng vật học và các vấn đề giáo dục của phụ nữ, Agnesi vì thế mà trở nên rất nổi tiếng. Cô liên tục tham gia vào các cuộc họp trao đổi học thuật và tham gia vào các buổi tranh luận cùng các vị khách uyên bác. Tuy nhiên, không lâu sau đó, cô cảm thấy mệt mỏi và chán nản với tất cả những điều này, cô bắt đầu thích cầu nguyện, làm việc thiện và nghiên cứu về thiền định.
Với sự thuyết phục của cha mình, cô đã tạm thời từ bỏ ý định trở thành một ni cô và bình tĩnh để nghiên cứu. Mười năm sau, cuốn sách giáo khoa giáo trình phân tích về vi phân và tích phân của cô đã được gửi cho Đức Giáo hoàng Benedict XIV. Đức Giáo hoàng đã đánh giá cao: “Bài viết của con sẽ mang lại vinh quang cho nước Ý”.
Năm 1752, cha của Agnesi qua đời, cô từ bỏ sự nghiệp đầy triển vọng của mình và đem sự giàu có của bản thân tận tâm giúp đỡ những người phụ nữ nghèo, người già và những người kém may mắn trong cuộc sống. Cô đã dành một số căn phòng trong nhà cho những người nghèo sinh sống. Năm 1759, Agnesi cho xây dựng một viện dưỡng lão tại Milan. Cô đã bán những món đồ biểu trưng cho vinh quang mà mình đã thành tựu được, trong đó bao gồm cả huy chương vàng do Đức Giáo Hoàng ban tặng, hộp kim cương và pha lê do nữ hoàng Habsburg Maria Theresa trao cho cô.
Sau này, Agnesi mắc bệnh và qua đời, cô được chôn cất tại một nghĩa trang không tên cùng với 15 bệnh nhân khác trong viện dưỡng lão. Trên một hòn đá ở góc nhà dưỡng lão, người ta đã chạm khắc những việc làm thiện lành của cô khi phục vụ những người phụ nữ nghèo. Quá khứ huy hoàng cùng với toán học của cô bị chôn vùi trong lịch sử. Nhưng 47 năm cống hiến cho các hoạt động từ thiện đã khiến cô trở nên nổi tiếng khắp xa gần vì tấm lòng đầy nhân ái, tiếng thơm vang mãi tới muôn đời sau.
“Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”
Phạm Trọng Yêm là một nhà tư tưởng, chính trị gia, nhà chiến lược quân sự và nhà văn nổi tiếng ở triều đại Bắc Tống. Người Trung Quốc đã không còn xa lạ gì với ông, với câu danh ngôn bất hủ được người đời tán dương hàng ngàn năm qua: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi nhạc nhi nhạc” (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Tác phẩm Nhạc Dương Lâu Ký của ông đến nay vẫn được coi là kinh điển cổ văn, được chọn trong sách giáo khoa Trung Quốc của các trường trung học cơ sở.
Diễn giải về câu nói nổi tiếng của mình, Phạm Trọng Yêm viết:
“Đừng vì của cải vật chất ngoại thân mà tự hào, mừng rỡ. Cũng đừng bởi vì thất ý, thất vọng mà bi thương. Khi còn giữ chức vị cao trong triều đình thì lo cho dân, chỉ e sợ dân cơ hàn khổ cực. Khi rời xa việc triều chính thì vì đấng quân vương mà lo lắng, chỉ e quân vương có điều thiếu sót. Dù ở trong hay ở ngoài triều thì đều lo. Nếu được hỏi, vậy khi nào mới vui? Tất sẽ trả lời: Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”.
“Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” kỳ thực chính là phương châm sống của những trí thức tài đức thời xưa.
Có câu “Giàu không quá ba đời”, nhưng gia tộc họ Phạm lại giàu có đến tám thế hệ. Con cháu họ Phạm kéo dài tới tận ngày nay. Vậy thì Phạm Trọng Yêm đã từng làm việc vĩ đại gì để con cháu đời sau lại đời đời nối dõi, hơn nữa còn lưu lại tiếng vang ngàn năm?
Năm 1021, Phạm Trọng Yêm được điều chuyển đảm nhận trách nhiệm giám sát kho muối ở Tây Khê (Hàng Châu), phụ trách việc lưu trữ, vận chuyển và tiêu thụ muối. Tây Khê nằm trên bờ biển Hoàng Hải, con đê cũ ven biển do Lý Thừa xây dựng trong thời nhà Đường. Vì lâu ngày không được sửa sang nên nhiều phần bờ đê bị vỡ khiến thủy triều dâng, nước biển chảy ngược vào cánh đồng, làm hư hại lò muối, người dân khổ cực.
Vì vậy, Phạm Trọng Yêm đã viết thư xin trùng tu xây dựng một con đê dọc bờ biển. Đến năm 1024, Phạm Trọng Yêm được phụ trách các dự án sửa chữa đê đập. Phạm Trọng Yêm đã tuyển dụng hơn 40.000 người để tu sửa lại và xây dựng con đê mới có chiều dài hơn 100km vô cùng vững chắc, đảm bảo sự an toàn cho người dân cũng như mùa màng, việc sản xuất muối cũng được thuận lợi. Người dân bản xứ vì để vinh danh ông đã đặt tên cho con đê là “Phạm Công Đê”, tàn tích vẫn còn tồn tại cho tới tận bây giờ.
Năm 1027, Phạm Trọng Yêm vì chịu tang mẹ nên đến sinh sống tại Ứng Thiên Phủ. Có người biết Phạm Trọng Yêm đang trong Ứng Thiên Phủ, liền mời ông đến học phủ nhậm chức, phụ trách việc giảng dạy ở viện thiên thư.
Bằng sự tài giỏi và phẩm đức hơn người, danh tiếng của ông ngày càng được nhiều người biết đến. Phạm Trọng Yêm từng dùng tiền lương của mình để hỗ trợ cho các chí sĩ ra nước ngoài học hỏi nhưng ông lại sống rất giản dị. Ông vô cùng nghiêm khắc đối với bản thân mình. Ông từng nói: “Ta ban đêm nằm trên giường, luôn phải nghĩ lại những hành vi đã làm ban ngày. Nếu những việc làm của ngày hôm đó là thỏa đáng, không có sai sót gì thì ta có thể an tâm ngủ ngon. Nhưng nếu không phải vậy, thì đêm đó sẽ không ngủ được ngon, ngày hôm sau nhất định phải sửa chữa sai sót ấy”.
Năm 1034, ở Tô Châu xảy ra mưa lớn kéo dài, nước sông không thể rút, ruộng lương ngập úng, nông dân mất mùa, người dân khốn khổ. Phạm Trọng Yêm khi ấy là tri phủ Tô Châu đã quan sát hoàn cảnh địa lý, quyết định nạo vét 5 con sông, để nước đọng chảy về Thái Hồ. Cách làm của ông chủ yếu là “sửa chữa, nạo vét sông và đặt cửa ngăn nước” nhưng lại vô cùng hiệu quả khiến người người khen ngợi, để lại bài học cho người đời sau. Từ triều đại Nam Tống đến nhà Nguyên, người Chiết Giang dưới triều đại nhà Minh đều học theo mô hình này của Phạm Trọng Yêm để khắc phục lũ lụt.
Phạm Trọng Yêm từ nhỏ đến lớn, sống cuộc sống nghèo khổ, cần kiệm cho nên khi làm quan cũng vô cùng giản dị, không bao giờ xa hoa mà quên gốc. Trong nhà ông, nếu không phải là có khách thì thức ăn là vô cùng đơn giản. Vợ và con của ông, sống một cuộc sống chỉ ở mức “cơm đủ ăn, áo đủ mặc”. Nhưng đối với người bên ngoài, ông và gia đình lại vô cùng phóng khoáng, thường xuyên bố thí, cứu giúp người nghèo khổ.
Lúc ở Tô Châu, Phạm Trọng Yêm mua một ngàn mẫu ruộng tốt ở vùng ngoại ô để nuôi sống những người dân bần cùng. Phạm Trọng Yêm thường xuyên dạy con phải sống giản dị, tiết kiệm. Ông thường nói: “Lúc bần hàn, ta đã cùng mẹ của các con phụng dưỡng bà nội. Bởi vì trong nhà nghèo khó nên đã không thể phụng dưỡng tốt cho bà nội được. Hiện giờ đã có bổng lộc cao hơn, có điều kiện để phụng dưỡng tốt thì bà lại không còn sống trên đời nữa. Mẹ của các con cũng sớm qua đời, đây là chuyện làm ta đau lòng nhất. Cho nên, ta sao có thể để các con sống xa hoa thoải mái được, đó là vui hưởng phú quý mà quên mất cái gốc”.
Trong mấy chục năm làm quan, Phạm Trọng Yêm sống vô cùng đơn giản. Cho dù khi làm đến chức Tể tướng, ở trên vạn người, gia đình Phạm Trọng Yêm vẫn sống trong ngôi nhà đơn sơ, ăn uống đạm bạc.
Có người từng muốn xây cho ông một ngôi nhà mới khang trang, nhưng ông lại nói: “Điều con người nên theo đuổi là đạo nghĩa. Một người nếu trong lòng có đạo nghĩa thì vô luận là ở đâu thì trong lòng cũng luôn vui vẻ”.
Phạm Trọng Yêm không để lại tài sản, đất đai cho con cháu, thậm chí ông còn dùng toàn bộ tiền tiết kiệm của cả đời để mua đất mở trường dạy học, chia ruộng đất cho dân, và cứu tế người nghèo.
Cả đời ông vì lên tiếng cho việc chính nghĩa mà bị giáng chức mấy lần, có lúc bị điều đến nơi ngoại thành xa xôi, nhưng ông không vì điều đó mà cảm thấy bi thương, đau buồn, cũng không vì cái lợi của bản thân mà làm ngơ trước những điều bất nghĩa. Đó đều là bởi vì ông lo lắng cho cuộc sống của người khác, đúng với phương châm sống “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”.
Lão Tử từng giảng: “Người phú quý tặng người của cải, người nhân ái tặng người lời nói”. Khổng Tử cũng nói: “Bất nghĩa mà giàu có, đối với ta cũng như phù vân”. Văn Thiên Tường còn để lại câu thơ: “Đời người xưa nay ai không chết? Lưu lại lòng son chiếu sử xanh”. Một đời của Phạm Trọng Yêm chính là cuộc đời của một người trí thức như thế.
Nguồn: dkn