Đây mới là sứ mệnh chân chính của việc thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh
“Biệt thuyết Thần Phật môn nan tiến/ Chỉ thị thường nhân tâm bất chân” – Chớ nói cửa Thần Phật khó vào/ Chỉ là tâm người thường không bỏ.
Nhắc đến ‘Tây du ký’, rất nhiều người đều nhớ đó là câu chuyện về hành trình tới Tây Thiên thỉnh kinh, nhiều lần vượt qua khó khăn nguy hiểm của bốn thầy trò Đường Tăng; hay một câu chuyện hàng yêu trừ ma của Tôn Ngộ Không. Đằng sau những sắp xếp tình tiết và lựa chọn của tác giả dành cho các nhân vật trong chuyện như Đường Tăng, Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng… rất có khả năng ẩn chứa nhiều huyền cơ to lớn. Vậy thì tại sao Thần lại an bài ra những vai diễn này? Việc họ tu luyện thành công có ám chỉ gì dành cho những người đời sau?
Trong bốn thầy trò, ngoại trừ Đường Tăng với tấm lòng lương thiện bao chứa cả thiên hạ – ‘quét sân cũng không muốn làm thương tổn đến một con kiến, vì thương tiếc loài bướm mà lấy vải bố bao lại đèn lồng’, những nhân vật khác trong nhóm người đi lấy kinh đều có những hành động gây ác ở mức độ to nhỏ khác nhau. Thậm chí còn có nhân vật đến cả những việc như giết người phóng hỏa cũng đã từng làm không ít lần. Thế nhưng, cuối cùng họ đều ở dưới sự cứu độ cùng giáo huấn từ bi của Phật và Bồ Tát mà cải tà quy chính, tu thành kim thân chính quả.
Tại sao tác giả lại chọn ra bốn người thầy trò Đường Tăng để viết nên tác phẩm ‘Tây du ký’? Tôi cho rằng mục đích chính của tác giả viết câu chuyện này là muốn khuyên nhủ con người hướng thiện, tu luyện thành Phật. Ông sử dụng một câu chuyện sinh động để giải thích cho thế nhân, một con người như thế nào mới có thể trở thành Phật.
Đường Tăng là do Kim Thiền Tử – một trong những đệ tử của Phật Tổ – chuyển sinh thành. Ông đã trải qua mười đời tu luyện, vậy nên đương nhiên ông là một người đại căn khí. Thêm vào đó, Đường Tăng còn có chí lớn hiến thân cho cửa Phật nên dĩ nhiên ông sẽ trở thành sư phụ và có thể tu thành Phật. Về nhân vật này, tôi sẽ không đề cập đến nhiều. Tôi cho rằng lựa chọn có tính đại biểu nhất của tác giả là mấy vị đồ đệ của Đường Tăng, bao gồm: Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới, Sa Tăng.
Tôn Ngộ Không
Tôn Ngộ Không vốn là một con khỉ đá sinh ra trong trời đất, thông minh lanh lợi. Sau này, vì được chân truyền từ Bồ Đề Tổ Sư nên Ngộ Không lại càng thần thông quảng đại. Mặc dù thần thông quảng đại nhưng bản tính hoang dã của Ngộ Không vẫn khó lòng thay đổi. Ngộ Không nhiều lần đi tới địa phủ gây rối, quấy nhiễu long cung, đại náo thiên cung, gây ra tai họa vô cùng to lớn. Cuối cùng, Ngộ Không bị Phật Tổ trừng phạt, phải chịu trấn áp dưới núi Ngũ Hành Sơn suốt 500 năm.
Mọi người đều biết “tâm của loài khỉ là khó định lại nhất”. Trong khi đó, điều cần thiết nhất để có thể tu Phật tu Đạo là tâm phải tĩnh, phải định. Chỉ khi tâm của một người định lại được thì mới có thể sản sinh ra trí huệ, mới có thể tu luyện thành Phật, thành Đạo. Hơn nữa, đối với một con khỉ trời sinh hoang dã mà nói, những vinh hoa phú quý trên trời dưới đất sẽ khiến nó rất khó cưỡng lại, cuối cùng đánh mất bản tính, dễ dàng sa đọa. May mắn thay, nhờ sự cứu độ và dạy bảo của Quán Âm Bồ Tát, Ngộ Không dần có một tấm lòng hướng Phật kiên định. ‘Phật tâm’ này của Ngộ Không về sau đã chiến thắng ‘cái tâm của loài khỉ’, cuối cùng giúp cho Ngộ Không tu thành ‘Đấu Chiến Thắng Phật’.
Lại nói, “Đấu Chiến” ở đây hoàn toàn không phải mang ý khai chiến với Phật Đạo Thần mà là ‘hàng yêu trừ ma’. Trong trời đất vốn dĩ có Phật thì cũng có ma. Uy nghiêm và từ bi của Thần Phật là đồng thời tồn tại. Đối với chúng sinh, Thần Phật sẽ cứu độ. Còn đối với những ác ma gây họa loạn trời đất nhân gian thì sao có thể không ‘chiến đấu’, không loại trừ được đây?
Bên cạnh đó, hình tượng của Ngộ Không trong ‘Tây du ký’ cũng nhắc nhở chúng ta: không có ‘tâm’ nào là không thể định lại được. Chẳng phải người ta vẫn hay nói rằng ‘tâm nhảy nhót như khỉ’ sao? Trên đời, tâm của loài khỉ vượn là khó định nhất. Nhưng một khi “định” lại được, người ta vẫn có thể tu thành Phật chân chính. Chỉ cần chúng ta thật lòng hướng Phật, không ngại gian khó, thì hoàn toàn không có cái lý: không thể thành Phật.
Trư Bát Giới
Đồ đệ thứ hai hộ tống Đường Tăng đi thỉnh kinh là Trư Bát Giới. Nếu như Ngộ Không vì mang cái tâm con khỉ mà tu luyện khó khăn, thì Bát Giới lại là một nhân vật toàn thân tập hợp tất cả tính xấu của con người. Mặc dù có thể nói, Trư Bát Giới có một lai lịch không tệ, là ‘Thiên Bồng nguyên soái’ hạ trần, nhưng bởi vì trêu ghẹo Hằng Nga tiên tử nên phải đầu thai quá gấp gáp, dẫn đến việc vào nhầm bào thai lợn. Vì lẽ đó, Trư Bát Giới mới mang theo rất nhiều ‘bản tính của lợn’. Những tính xấu con người có, Bát Giới dường như đều có. Những tính xấu con người không có, Bát Giới cũng vẫn có. Gương mặt xấu xí, hình thể vụng về ngốc nghếch, lòng tham không đáy, sợ chết, háo sắc, lười biếng, thích trêu ghẹo đùa giỡn, thích gây xích mích, ý chí không kiên định, v.v… vậy nên mới có tên gọi là Bát Giới (tám giới cấm). Khách quan mà nói, một đồ đệ có nhiều tính xấu giống như Bát Giới, nếu muốn tu luyện thành Thần Phật thì quả là vọng tưởng viển vông.
Thế nhưng, một người kém cỏi đến ‘mười phân vẹn mười’ như vậy cuối cùng cũng đã tu thành, dẫu rằng tầng thứ quả vị không được như sư phụ và đại sư huynh. Bát Giới sở dĩ có thể thành công là bởi có một hoàn cảnh tu luyện đặc thù. Đó là thông qua phương thức ’đi lấy kinh’, rời xa khỏi khói lửa nhân gian để dần dần làm phai nhạt và trừ bỏ đi các loại dục vọng cùng bản tính xấu của mình. Mặt mũi xấu xí, hình thể vụng về không phải là chướng ngại trong tu luyện. Tu hành là không phân biệt xấu đẹp. Lòng tham và tính háo sắc của Trư Bát Giới bị hoàn cảnh kiềm chế do điều kiện có hạn trên đường đi thỉnh kinh. Ý chí yếu nhược cùng thói lười biếng cũng dần thay đổi nhờ có sự ảnh hưởng và đốc thúc từ sư phụ cùng các sư huynh đệ.
Nếu Bát Giới đã có thể tu thành Thần, còn có người nào là không thể tu thành Thần đây?
Sa Tăng
Về phần Sa Tăng, khi còn đang ở Lưu Sa Hà, Sa Tăng lấy việc ăn thịt người để sống. Những sinh mạng bị Sa Tăng hại chết nhiều vô số. Sau khi quy y cửa Phật, Sa Tăng ý chí kiên định, trợ giúp sư huynh trừ yêu diệt ma. Dù gặp chuyện gì cũng đều không oán không hận. Từ đó, Sa Tăng không còn làm những việc ác như ăn thịt người nữa. Cuối cùng, ông đã tu thành “La Hán mình vàng”.
Một người loạn tâm khó định, một người tính xấu đầy thân, một người hại mệnh vô số, nhưng tất cả họ cuối cùng đều đã tu thành Phật Đạo Thần.
Có bài thơ rằng:
Biệt thuyết Thần Phật môn nan tiến
Chỉ thị thường nhân tâm bất chân
Nam tử khẳng tu thành La Hán
Nữ tử khẳng tu thành Quan Âm.
Tạm dịch:
Chớ nói cửa Thần Phật khó vào
Chỉ là tâm người thường không bỏ
Nam tử kiên tu thành La Hán
Nữ tử kiên tu hóa Quan Âm.
Mới hay, làm người tu luyện chân chính tu thành Chính quả, viên mãn mới là ý nghĩa đích thực của nhân sinh!
Nguồn: ĐKN (Trường Lạc biên dịch)
(Ảnh trong bài: Cảnh phim “Tây du ký”1986)