Điều gì khiến từ một gia đình bình thường trở thành đại gia tộc: 300 năm có 92 tể tướng
Lưu Vũ Tích – thi nhân nổi tiếng thời nhà Đường bên Trung Quốc có một bài tuyệt cú hoài cổ nổi tiếng tên là “Ô Y hạng” như sau:
Chu Tước kiều biên dã thảo hoa.
Ô Y hạng khẩu tịch dương tà.
Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến.
Phi nhập tầm thường bách tính gia.
Tạm dịch:
Bên cầu Chu Tước cỏ hoa.
Ô Y đầu ngõ bóng tà tịch dương.
Én xưa nhà Tạ nhà Vương.
Nay bay vào chốn tầm thường dân quê.
Vương và Tạ trong bài thơ này ý chỉ nhà họ Vương và họ Tạ – hai đại gia tộc quyền thế nhất thời Tấn.
Trong đó, gia tộc họ Vương được gọi là ‘đệ nhất vọng tộc’ thời trung cổ (trong lịch sử Trung Quốc thường chỉ khoảng thời gian Ngụy Tấn, Nam Bắc Triều, Tùy Đường). Trong 300 năm, gia tộc này đã có 92 người làm tới chức tể tướng.
Hai nhà thư pháp nổi tiếng thời Đông Tấn là Vương Hi Chi và con trai Vương Hiến Chi cũng là con cháu của gia tộc họ Vương này.
Thế nhưng, người đặt viên gạch đầu tiên cho lịch sử huy hoàng của gia tộc họ Vương lại là người năm lần bảy lượt bị mẹ kế làm khó, trở thành cái túi trút giận của bà, cuối cùng suýt bị bà hại chết. Đến khi 60 tuổi ông mới ra làm quan.
Vậy ông là người như thế nào mà có thể gây dựng được một danh gia vọng tộc hiển hách như thế?
Gia tộc họ Vương ở Lang Da
Thời Ngụy Tấn, vùng đất Lâm Nghi ở tỉnh Sơn Đông ngày nay được gọi là Lang Da.
Vào một ngày mùa đông lạnh giá, người ta bắt gặp một cậu thiếu niên đang đứng bên cạnh một con sông nhỏ đã đóng băng cứng ngắc ở Lang Da, nôn nóng tới mức chảy mồ hôi trán.
Hóa ra, mẹ kế của cậu muốn ăn canh cá chép. Hôm nay, dù thế nào cậu cũng phải tìm cho ra hai con cá chép, nếu không thì… Chẳng có ‘nếu không’ nào hết, cậu không nghĩ tới điều đó.
Thế nhưng, ‘băng dày ba thước không phải do cái lạnh một ngày’, lớp băng dày như vậy, muốn đập vỡ nó không phải việc dễ dàng. Khó khăn lắm cậu mới tìm được hòn đá to một chút, dùng hết sức đập xuống, nhưng trên mặt băng cứng ngắc, chỉ thấy một vết trắng do lực va chạm gây ra.
Cậu thiếu niên đổ mồ hôi trên mặt sông băng ấy chính là Vương Tường – người đặt nền móng cho cơ nghiệp 300 năm huy hoàng sau này của gia tộc họ Vương.
Nói về xuất thân của Vương Tường, tổ tiên của cậu là Đại tướng Vương Tiễn nhà Tần – một trong tứ đại danh tướng thời Chiến Quốc. Sau khi giúp Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, Vương Tiễn lui về ở ẩn tại quê nhà.
Vương Tường sinh vào cuối thời Đông Hán, mẹ cậu qua đời từ khi ông còn rất nhỏ. Sau đó, cha cậu là Vương Dung lấy vợ mới người họ Chu, gọi là Chu thị.
Chu thị là người tháo vát, quán xuyến được mọi việc trong nhà, nhưng bà lại không có chút tình yêu thương nào đối với Vương Tường, còn thường xuyên nói xấu Vương Tường trước mặt chồng. Dần dần, cha của Vương Tường cũng đối xử lạnh nhạt với cậu.
Kỳ thực, nhà họ Vương mấy đời trước làm quan nên cũng có của cải tích lũy, Vương Tường cũng là một nho sinh đọc sách biết chữ. Nhưng cha và mẹ kế luôn kêu cậu đi làm việc lao động tay chân. Chu thị thường tùy ý sai bảo cậu, hễ không vừa lòng là mắng nhiếc đòn roi.
Nhưng Vương Tường bản tính rất hiếu thuận, trước những hành vi ngược đãi kia của mẹ kế, cậu không hề để trong tâm. Cậu luôn kính cẩn lễ phép, chịu thương chịu khó. Khi cha mẹ đau ốm, cậu luôn túc trực đầu giường để săn sóc cha mẹ. Sắc thuốc xong, cậu đều đích thân nếm thử trước rồi mới đưa cho cha mẹ uống.
Nằm trên băng cầu cá chép
Mẹ kế của Vương Tường thích ăn cá chép. Có một lần, vào ngày đông tháng Chạp giá rét, bà mắc bệnh phong hàn, nằm trên giường mấy ngày không ăn một hạt cơm. Bệnh vừa thuyên giảm, bà liền nói muốn ăn cá chép tươi, muốn ăn canh cá chép.
Vương Tường nghe vậy vội nói: “Mẹ đợi chút, giờ con sẽ đi bắt cá cho mẹ”. Lấy được lưới bắt cá xong, cậu liền đi ra ngoài. Đây chính là cảnh người ta bắt gặp một cậu thanh niên bên sông băng ở trên.
Lớp băng dày như vậy, Vương Tường đã nghĩ ra cách nào để bắt cá? Cậu tiếp tục dùng lực ném hòn đá xuống, mặt sông băng dường như chẳng hề hấn gì, còn người cậu lại đổ đầy mồ hôi.
Lúc này, bỗng cậu nghĩ ra một cách. Vương Tường cởi bỏ lớp áo bông, để trần thân trên, rồi nằm xuống lớp băng làm nó chảy ra. Nhưng nóng lạnh gặp nhau, không chừng chưa bắt được cá thì người cũng đi rồi.
Nhưng tấm lòng hiếu thảo này đã làm cảm động trời đất. Vì muốn bắt hai con cá chép để hiếu kính với người mẹ kế đang mắc bệnh, Vương Tường đã hoàn toàn quên đi bản thân, suýt chút nữa còn mất mạng.
Đúng lúc này, mặt sông xuất hiện tiếng nứt, vỡ ra để lộ một lỗ lớn, rồi hai con cá chép lớn nhảy ra khỏi mặt nước, chui vào lòng Vương Tường, tức là hai con cá chép này vô cùng chủ động, rất có tinh thần hiến dâng.
Vương Tường vừa kinh ngạc vừa vui mừng, cậu quỳ sụp xuống cảm tạ trời đất Thần linh phù hộ rồi phấn khởi xách hai con cá về cho mẹ.
Ăn xong cá bơi dưới nước, mẹ kế lại muốn ăn chim bay trên trời. Có một lần, bà nói muốn ăn chim sẻ thông vàng nướng. Vương Tường vò đầu bứt tóc suy nghĩ, cậu vô cùng sầu não vì sẻ thông vàng rất khó bắt.
Nào ngờ, lúc này có tới mười mấy con sẻ thông vàng bay vào nhà họ Vương, như con thiêu thân lao vào chỗ chết. Vương Tường bắt được rồi mang đi nướng cho mẹ.
Có lẽ ngày nay khi chúng ta nghe được những câu chuyện này sẽ cảm thấy rất cường điệu, khó tin. Nhưng nó lại được ghi chép trong cuốn chính sử “Tấn Thư”.
Đương thời, tiếng lành đồn xa, tấm lòng hiếu kính của Vương Tường rất nhanh truyền khắp thôn làng lân cận. Bà con thôn quê đều kinh ngạc cảm thán rằng, sự hiếu thuận của Vương Tường đã làm cảm động trời đất, và khen ngợi ông là người con hiếu thảo hiếm có ở nhân gian.
Vậy mẹ kế của cậu có cảm động không? Hoàn toàn không, ngược lại bà còn càng căm ghét Vương Tường hơn.
Vương Lãm tranh uống rượu độc
Chu thị có một người con đẻ tên là Vương Lãm, nhỏ hơn Vương Tường tới hai mươi mấy tuổi. Khi Vương Lãm mới vài tuổi, hễ thấy anh trai bị mẹ đánh, cậu liền ôm lấy anh, nước mắt nước mũi chảy dài, tỏ ý muốn chịu đòn cùng.
Đến khi Vương Lãm trưởng thành hơn, cậu thường khuyên mẹ đối xử tốt với anh trai. Ngoài mặt, mẹ kế có vẻ như bớt hung ác bạo ngược hơn, bà không đánh nữa mà đổi cách khác.
Mẹ kế thường xuyên sai bảo Vương Tường, việc này chưa xong đã giao việc khác, Vương Lãm trông vậy thì rất thương anh. Mỗi lần mẹ sai khiến anh trai, ông đều âm thầm đi làm cùng anh.
Về sau, cả hai anh em đều lấy vợ. Chu thị lại tùy ý gọi vợ của Vương Tường đến sai khiến, Vương Lãm liền kêu vợ của mình đi giúp chị dâu. Chu thị vì thương cốt nhục của mình nên đành thôi.
Sau khi người cha Vương Dung qua đời, là trai trưởng trong nhà, Vương Tường phải đứng ra gánh vác gia đình, thức khuya dậy sớm làm việc quần quật.
Vương Tương làm con hiếu thuận, phẩm hạnh đoan chính, bà con thôn làng không ai là không biết đến ông, ông ngày càng có danh tiếng. Chu thị lại vì thế mà ganh ghét, ôm hận trong tâm.
Mẹ kế lại vô duyên vô cớ lo ngại rằng Vương Tường sẽ lấy hết gia sản, bà bèn nghĩ cách trừ khử Vương Tường cho dứt mối lo.
Hôm đó, sau khi giải quyết công việc bên ngoài, Vương Tường trở về nhà, vừa ngồi xuống thì mẹ kế xuất hiện. Bà biểu hiện rất khác ngày thường, cười tươi như hoa, và mang một bát rượu đến cho Vương Tường uống.
Sự việc quá đột ngột, Vương Tường ngây người một lúc. Rồi ông lại nghĩ, “mẹ đối xử với mình như vậy, quả là đại phúc phận của Vương Tường ta”.
Ông cung kính đưa hai tay ra đỡ lấy bát rượu, vừa định uống thì Vương Lãm ở đây chạy tới.
Không biết làm sao mà Vương Lãm nhận ra mẹ đã bỏ độc vào bát rượu này, ông đột nhiên giật lấy bát rượu rồi nói: “Anh vừa làm việc vất vả xong, không thể lập tức uống rượu, hay là để em uống thay cho”.
Vương Tường thấy sắc mặt và hành vi của Vương Lãm có chút kỳ lạ, trong đầu ông xẹt qua một ý nghĩ, lẽ nào trong rượu này có độc? Ông nghĩ, hạ độc chết mình cũng chẳng sao, sao có thể làm liên lụy đến em trai được. Ông liền lấy lại bát rượu, Vương Lãm lại đoạt lại, cứ như vậy hai bên giành qua giành lại.
Chu thị thấy vậy thì hãi hùng khiếp vía, vội bước tới giả vờ khuyên giải, rồi cầm bát rượu mang đi.
Từ đó trở đi, hễ mẹ làm đồ ăn cho anh trai, Vương Lãm đều giành tới ăn trước. Mẹ kế lo rằng, làm thế này không những không giết được Vương Tường, ngược lại còn nguy hại tới tính mạng của con đẻ. Thế là bà thôi không hạ độc vào thức ăn nữa.
Vậy mẹ kế có thực sự dừng tay hay không?
Vương Tường cảm hóa mẹ kế
Một buổi tối, Chu thị cầm một con dao làm bếp rồi lẻn vào phòng của Vương Tường. Bà ta xông thẳng tới giường của Vương Tường chém loạn một hồi.
Mẹ kế nghĩ, lần này chắc hẳn đã chém Vương Tường thành một đống thịt vụn nát. Đúng lúc này, có một người đột nhiên từ ngoài cửa bước vào làm mẹ kế sợ nhảy dựng lên.
Hóa ra, khi nãy Vương Tường ra ngoài đi vệ sinh. Khi trở về, thấy mẹ kế cầm dao trên tay, giường chiếu lại bị chém tới mức hỗn loạn, ông liền hiểu ra.
Vương Tường quỳ phục xuống đất trước mặt mẹ kế rồi đưa đầu ra mời bà chém. Ông nghĩ rằng, nếu mẹ đã muốn ta chết, vậy ta chết đi thì tốt hơn, không nên để mẹ khó chịu.
Khi này, mẹ kế nhìn lại bản thân, biết bao lần bà gây khó dễ cho Vương Tường, còn nhiều lần mưu kế sát hại ông, vậy mà đứa con riêng của chồng không những không hận bà, mà còn răm rắp vâng lời như vậy, hôm nay còn quỳ xuống tình nguyện được chết, đối với bà quả là thành tâm thành ý.
Cuối cùng, mẹ kế cũng bị cảm hóa. Trong tim trào ra lòng yêu thương chân thành quét sạch niệm đầu tà ác muốn hãm hại Vương Tường. Mẹ kế ném con dao đi, ôm đầu Vương Tường khóc không thành tiếng.
Từ đó, mẹ kế đối xử với Vương Tường như con đẻ của chính mình. Cả nhà hòa thuận đầm ấm.
Ra làm quan ở tuổi lục tuần
Năm cuối thời Đông Hán, thiên hạ đại loạn, sau đó xuất hiện thế chân vạc Tam Quốc, các nước tấn công sát phạt lẫn nhau.
Lang Da chìm trong chiến họa. Vương Tường liền đưa mẹ và em trai Vương Lãm tới Lư Giang (nay thuộc thành phố Hợp Phì, tỉnh An Huy) ẩn cư hơn 20 năm.
Trong hơn 20 năm này, Vương Tường vẫn luôn hiếu thuận với mẹ kế, danh tiếng của ông ngày càng vang xa. Thường xuyên có người tiến cử ông làm quan, nhưng Vương Tường nghĩ, mẹ vẫn còn tại thế, nên ở bên cạnh mẹ để tận hiếu, nên ông hết lần này tới lần khác cảm tạ rồi khước từ.
Năm đó, khi mẹ kế qua đời, Vương Tường đau buồn quá độ rồi đổ bệnh. Sau khi tĩnh dưỡng nhiều ngày ông mới có thể miễn cưỡng ngồi dậy.
Khi đó là thời Tam Quốc, Ngụy Văn Đế đang tại vị. Thứ sử Từ Châu là Lã Kiền nhiều lần mời Vương Tường ra làm Biệt giá, tương đương với chức Phó thứ sử. Đây là chức quan phò tá cho Thử sử của một châu, vì có địa vị khá cao nên khi ra ngoài đi tuần không ngồi chung một xe giá với Thứ sử, mà ngồi riêng một xe, nên được gọi là “Biệt giá”.
Nhưng Vương Tường kiên trì từ chối. Vương Lãm khuyên anh: “Mẹ đã qua đời, chuyện trong nhà anh không cần quá bận tâm, cũng đến lúc ra làm quan để báo đáp quốc gia rồi”.
Vương Lãm còn chuẩn bị đầy đủ người ngựa cho anh trai. Khi này, Vương Tương mới nhận lời ra làm Biệt giá Từ Châu. Lúc ấy ông đã 60 tuổi.
Sau khi Vương Tường nhận chức, Thứ sử Lã Kiền vô cùng tín nhiệm ông, đem tất cả sự vụ của châu giao cho Biệt giá.
Khi ấy vẫn chiến loạn không ngừng, kẻ cướp, trộm cắp cũng nhân lúc thời buổi loạn lạc mà hoành hành khắp nơi, thường đi trộm cắp của bách tính Từ Châu.
Vương Tường tuy là một nho sinh, tuổi tác cũng đã cao, nhưng ông lại rất có tài năng về mặt quân sự, gừng càng già càng cay. Ông đích thân dẫn dắt binh lính đi thảo phạt bọn cướp, lần lượt bình định đạo tặc Từ Châu.
Thế nên bách tính khắp vùng Từ Châu được an cư lạc nghiệp, thi hành chính lệnh, giáo hóa không có trở ngại, xuất hiện cảnh tượng chính trị và nhân dân hòa hợp.
Đương thời, nhân dân Từ Châu đã sáng tác một bài ca dao để ca ngợi Vương Tường:
Hải Nghi chi khang.
Thực lại Vương Tường.
Bang quốc bất không.
Biệt giá chi công
Tạm dịch:
Hải Nghi thịnh vượng.
Nhờ có Vương Tường.
Yên định quốc gia.
Là công Biệt giá
Từ đó, Vương Tường thăng tiến nhanh chóng trong quan trường. Bằng nhân phẩm và tài năng của mình, ông đã được Ngụy Văn Đế Tào Phi, Cao Quý Hương Công Tào Mao (hoàng đế nhà Ngụy, cháu nội của Tào Phi) và Tấn Vũ Đế Tư Mã Viêm xem trọng, từng bước lên cao.
Tấn Vũ Đế bái Vương Tường làm Thái bảo, tấn phong làm Tuy Lăng Công.
Thái sử Lã Kiền tặng đao
Trước khi Lã Kiền làm Thứ sử Từ Châu, ông từng có được một thanh bảo đao, cứ đến tối là thanh bảo đao này phát sáng rực rỡ.
Lã Kiền mời người biết giám định bảo đao đến xem. Người này xem xong thì nói, thanh bảo đao này có linh tính đặc biệt, người xứng đáng đeo nó nhất định sẽ làm tới phẩm Tam Công (ba chức quan cao nhất đường thời: Thái sư, Thái phó, Thái bảo). Lã Kiền không hề nghi ngờ, ông vô cùng tin tưởng lời nói này.
Sau khi Vương Tường nhận lời Lã Kiền ra làm quan, vị Thứ sử này thấy rằng Vương Tường là người có phẩm cách cao thượng, là ứng viên phù hợp đeo thanh bảo đao này.
Ông nói với Vương Tường: “Tôi phúc đức mỏng, không thể làm đến chức Tam Công. Đối với tôi mà nói, thanh đao này không những chẳng có gì tốt đẹp, có khi còn có hại. Nhưng với uy đức và khí lượng của ngài, khả năng làm tới Tam Công là có thừa, cho nên xin tặng thanh bảo đao này cho ngài”.
Vương Tường kiên quyết không nhận. Lã Kiền nhiều lần kính tặng, ông mới tiếp nhận.
Về sau, quả nhiên Vương Tường được phong làm Thái bảo. Ông cáo quan khi tuổi đã ngoài bát tuần.
Khi Vương Tường lâm chung, ông đã tặng thanh bảo đao cho Vương Lãm và nói: “Đệ xứng đáng đeo thanh bảo đao này, đời sau nhất định hưng thịnh”.
Vương Lãm cũng nhiều lần từ chối, cuối cùng mới miễn cưỡng nhận đao.
Sự việc Lã Kiền tặng đao đủ để thấy đạo đức cao thượng, tiết tháo kiên trinh của cổ nhân. Vật báu như vậy, ai mà không muốn chiếm hữu? Nhưng Lã Kiền lại chủ động tặng cho Vương Tường. Tới lúc lâm chung, Vương Tường lại không để lại cho con cháu của mình mà tặng cho Vương Lãm – em trai cùng cha khác mẹ.
Trong “Chu Dịch” có viết, “Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh”, tức là nhà mà tích thiện thì ắt có phúc dư thừa.
Quả nhiên, từ thời Ngụy Tấn cho đến đầu thời Đường, gia tộc họ Vương ở Lang Da được gọi là “nhân tài đông đúc, sáng rực như chòm sao”. Không những xuất hiện rất nhiều cao quan hiển quý, hoàng hậu, phò mã, mà trong nhiều lĩnh vực như văn học, thư pháp, hội họa, âm nhạc… cũng là những tài hoa tuyệt thế lúc đương thời, xứng với danh hiệu “đệ nhất hào môn” thời Ngụy Tấn Nam Bắc triều.
Gia huấn nhà họ Vương ở Lang Da
Về sau, lòng hiếu thảo của Vương Tường qua câu chuyện ‘Ngọa băng cầu lý’ (Nằm trên băng cầu cá chép) đã được ghi vào cuốn “Nhị thập tứ Hiếu” – tác phẩm kể lại sự tích của 24 tấm gương hiếu thảo. Bản thân Vương Tường cũng được tôn xưng là “Hiếu Thánh”.
Khi anh trai bị mẹ ngược đãi, Vương Lãm từ nhỏ đã biết kính yêu và bảo vệ anh, thực là đáng quý, khiến người khác khâm phục. Câu chuyện ‘Vương Lãm tranh trấm’ (Vương Lãm tranh uống rượu độc) cũng được đưa vào cuốn sách cổ đại “Nhị thập tứ Đễ” – tức 24 câu chuyện về lòng kính trọng và thương yêu của người em dành cho anh trai.
Trước khi qua đời, Vương Tường đã để lại bài gia huấn có tên “Huấn tử tôn di lệnh”, còn được gọi là Gia huấn nhà họ Vương ở Lang Da. Trong đó giảng về năm điều căn bản trong đối nhân xử thế. Theo cách nói của người ngày nay đó là:
Lời nói và hành động đi đôi với nhau, trước sau như một, có thủy có chung, giữ chữ tín, coi trọng lời hứa. Đây là cảnh giới của lòng thành tín.
Vinh dự nhường cho người khác, dũng cảm gánh vác trách nhiệm và chịu trách nhiệm cho những lỗi lầm. Đây là cảnh giới của phẩm đức.
Tu đức, lập nghiệp, biểu dương thanh danh, làm cho tâm huyết bồi dưỡng và sự giáo dục của cha mẹ đơm hoa kết trái, để gia đình được nở mày nở mặt. Đây là cảnh giới của hiếu.
Anh chị em hòa thuận vui vẻ, gia tộc hòa hảo. Đây là cảnh giới của hữu ái.
Đối với tài vật, không so đo tranh giành mà khiêm nhường lẫn nhau thì là tốt nhất.
Hai anh em Vương Tường và Vương Lãm hiếu đễ trung hậu, là tấm gương sáng nơi thế gian. Bài gia huấn trên cùng câu chuyện về Vương Tường và Vương Lãm quả là xứng đáng để hậu thế noi theo.
Theo NTDVN