Đường Hy Tông, vị Hoàng đế trốn chạy nổi tiếng trong lịch sử! 15 năm tại vị, 7 năm phải trốn chạy
Người ta nói rằng cuộc nổi dậy An Sử thời Đường, và Đường Huyền Tông Lý Long Cơ chạy đến Tứ Xuyên để lánh nạn, đã mở ra một tiền lệ cho việc đào thoát của hoàng đế triều Đường.
Tiếp theo là Đường Đức Tông Lý Thích vào năm Kiến Trung thứ 4 (783), do sự ban thưởng của triều đình không công bằng, đã gây ra một cuộc binh biến ở Kinh Nguyên, Đức Tông đã vội vàng chạy trốn đến Phụng Thiên (nay là Thiểm Tây).
Tuy nhiên, vị hoàng đế trốn thoát nổi tiếng nhất là Đường Hy Tông Lý Huyên, người đã trốn thoát hai lần trong suốt 15 năm trị vì, và thời gian mà ông phải chạy loạn là 7 năm.
Đường Hy Tông Lý Huyên sinh ngày 8 tháng 5 năm Tây Thông thứ 3 (8 tháng 6 năm 862) và là hoàng đế thứ 21 của nhà Đường. Vào thời điểm đó, hoạn quan đã nắm quyền điều hành triều chính, khi Đường Ý Tông chết vì bệnh tật, với sự hỗ trợ của các hoạn quan, đã đưa con trai thứ năm của Ý Tông là Lý Nghiễm, lúc đó mới mười hai tuổi làm thái tử, và đổi tên là Lý Huyên.
Bởi vì Đường Hy Tông gần như được thái giám Điền Lệnh Tư dạy dỗ từ nhỏ và ông đã đồng hành cùng Điền Lệnh Tư trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, sau khi Đường Hy Tông lên ngôi, ông đã giao việc triều chính cho Điền Lệnh Tư, và gọi Điền Linh Tử là “nghĩa phụ”, và sau đó thăng ông làm tả thần sách quân trung úy.
Mặt khác, bản thân Lý Huyên thích hưởng lạc, thích chọi gà, cược ngỗng, thích kỵ xạ, kiếm thuật, âm nhạc, cờ vây…đều rất giỏi. Tuy nhiên, khúc côn cầu là môn mà ông thích nhất và cũng giỏi nhất. Ông từng tự phụ nói: “Nếu trẫm tham gia cuộc thi khúc côn cầu, trẫm chắc chắn là nhà vô địch“.
Bản thân Điền Lệnh Tư cũng là người buôn quan bán tước, mưu mô xảo quyệt, còn xúi giục Đường Hy Tông đem quân đi khắp phố phường, thấy thương nhân có gì tốt thì sai mang vào cung, thấy người đi cáo trạng thì đưa vào Kinh Triệu rồi đánh cho chết.
Vào năm thứ hai sau khi Hy Tông lên ngôi, Vương Tiên Chi của Bộc Châu đã phát động một cuộc nổi loạn, sau đó là Hoàng Sào hưởng ứng theo. Sau nhiều lần giằng co, sau khi Vương Tiên Chi bị giết, quân nổi dậy dẫn đầu là Hoàng Sào, đốt phá và cướp bóc khắp nơi.
Sau khi quân nổi dậy chiếm được Đồng Quan, vào tháng 12 năm Quảng Minh thứ nhất (880), Hoàng đế Hy Tông vội vã chạy trốn khỏi kinh thành đến Tứ Xuyên để ẩn náu dưới sự bảo vệ của quân Thần sách. Trên thực tế, vào đầu năm, Điền Lệnh Tư sợ quân nổi dậy sẽ xâm lược Trường An, nên đã âm thầm chuẩn bị cho hoàng đế.
Ông tiến cử anh trai mình là Trần Kính Tuyên và ba tướng quân làm Tiết độ sử Tây Xuyên, Đông Xuyên và Sơn Nam tại ba chấn của Thục địa. Nhưng Hy Tông không biết phải bố trí ai nên đã tổ chức một trận đấu khúc côn cầu vào tháng 3 cho bốn người họ và người chiến thắng được bổ nhiệm làm Tiết độ sử của Tây Xuyên.
Kết quả là Trần Kính Tuyên giành chiến thắng trong cuộc thi, và được bổ nhiệm làm Tiết độ sử của Tây Xuyên thay thế Thôi An Tiềm, người đang tại chức vào thời điểm đó.
Khi Hy Tông chạy loạn trong bốn năm. Mãi đến năm 884, Hoàng Sào mới bị đánh bại và bị chính thuộc hạ của mình giết chết, năm sau Đường Hy Tông mới có thể trở về Trường An, đồng thời Đường Hy Tông đổi niên hiệu thành Quang Khải (885-888).
Vào năm Quang Khải thứ nhất (885), Đường Hy Tông trở về Trường An, đối mặt với sự thật rằng các Tiết độ sử từ khắp nơi đều tự tôn và không chịu sự kiểm soát của triều đình, trên thực tế trở thành một lực lượng ly khai khỏi triều đình.
Lúc này, Điền Lệnh Tư được Hoàng đế Hy Tông phong làm Thập đạo quân, thống lĩnh Trung quân, Cấm quân, hành động lại càng liều lĩnh hơn. Khi đó, Điền Lệnh Tư muốn mở rộng cấm quân nhưng ngân khố trống rỗng, số lượng không đủ.
Điền Lệnh Tư đã cố gắng giải quyết một phần vấn đề bằng cách lệnh cho Vương Trọng Vinh giao lại quyền kiểm soát các ao muối tại Hộ Quốc cho triều đình. Vương Trọng Vinh từ chối và tuyên bố công khai chống lại Điền Lệnh Tư, Điền Lệnh Tư trả đũa bắt cách thỉnh Đường Hy Tông chuyển Vương Trọng Vinh đến Thiên Bình quân.
Vương Trọng Vinh lại từ chối việc luân chuyển và liên kết với Lý Khắc Dụng nhằm chuẩn bị cho một cuộc đối đầu với quân triều đình của Điền Lệnh Tư và các Tiết độ sứ là đồng minh của Điền. Khoảng tết năm 886, Vương Trọng Vinh và Lý Khắc Dụng đánh bại Điền cùng các đồng minh và tiến về Trường An, Điền Lệnh Tư đưa Đường Hy Tông chạy đến Hưng Nguyên.
Điền Linh Tử cảm thấy mình không được mọi người dung nạp, vào năm Quang Khải thứ hai (886), ông tự bổ nhiệm mình làm sứ quân Tây Xuyên, dẫn một số cấm quân đến Thành Đô nương nhờ anh trai, Trần Kính Tuyên, Tiết độ sử của Tây Xuyên, để thiết lập một phạm vi ảnh hưởng ở Tây Xuyên.
Hoàng đế Hy Tông ban hành chỉ dụ cắt tước vị chính thức của Điền Lệnh Tư và đày ông đến Đoan Châu, nhưng vì Điền Lệnh Tư được đặt dưới sự bảo vệ của Trần Kính Tuyên nên sắc lệnh này vô hiệu.
Sau đó, Hoàng đế Hy Tông chưa có ngày nào yên. Chu Mân phong Lý Huân làm hoàng đế, và Tiết độ sứ Lý Xương từng ép ở lại hộ tống đoàn xe của Hy Tông đã rời khỏi đoàn xe Hy Tông và tấn công Trường An… Khi đó cung thành có rất nhiều hỗn loạn.
Mãi đến tháng 2 năm Quang Khải thứ 4 (888), Hy Tông mới trở lại thành Trường An. Sau đó, Hy Tông đã đến thăm Thái Miếu và tuyên bố đại xá, đổi niên hiệu thành Văn Đức năm thứ nhất để thể hiện “canh tân khí tượng“.
Vào ngày 3 tháng 3 âm lịch năm Văn Đức thứ nhất (888), Hoàng đế Hy Tông vừa trở về Trường An chưa được một tháng thì bị “ốm”; vào ngày thứ sáu của tháng 3 âm lịch, Hoàng đế Hy Tông băng hà tại cung điện Trường An.
Kể từ khi lên ngôi, ông đã liên tục phải đối mặt với các cuộc nổi loạn và thảm họa quân sự, và phải rời khỏi thành Trường An. Gần nửa cuộc đời của mình, Đường Hy Tông Lý Huyên, sống lưu vong và tái kiến triều đình, cuối cùng chết vì bạo bệnh ở tuổi 27.
May mắn rằng, cuối cùng ông cũng hoàn thành được tâm nguyện ấp ủ bấy lâu nay là “lá rụng về cội” trước khi chết, đây có thể coi là may mắn cuối cùng trong cuộc đời ông.
Nguyệt Hòa biên dịch
Theo Sound of hope