Blog
Hành động của Hạ Hầu Đôn sau khi bị tên bắn trúng mắt và hành động của Nguyễn Biểu nước Nam cũng không kém
Nước Nam xưa cũng có những đại nhân vật có hào khí không thua kém gì hào kiệt Tam Quốc vậy.
Hạ Hầu Đôn tự là Nguyên Nhượng, người Tiêu Quận, nước Bái, đồng hương với Tào Tháo. Nguyên Tào Tháo họ Hạ Hầu, cha là Tào Tung làm con nuôi họ Tào nên đổi sang họ Tào. Do vậy, Hạ Hầu Đôn còn là chỗ anh em cùng tộc với Tháo.
Hạ Hầu Đôn là một trong vài tướng đầu tiên đi theo Tháo khi Tháo khởi binh đánh Đổng Trác cùng với chư hầu. Đôn dũng mãnh, chiến đấu rất hăng hái nhưng nóng tính, ít mưu.
Về võ nghệ, Đôn cũng vào hạng khá, nhưng không thể vươn lên tầm của Quan Trương Triệu Mã Hoàng bên Thục; Thái Sử Từ, Tôn Sách Đông Ngô; Điển Vi, Hứa Chử, Từ Hoảng, Trương Liêu, Trương Cáp bên Ngụy.
Để có cuộc sống bình an và hút nhiều tài lộc, hãy tham khảo các vật phẩm phong thủy thủ công của Hòn Ngọc nhé!
Lẵng Tài Lộc Buôn May Bán Đắt
Tháp Tỏi Ngũ Hạt Hút Tài Lộc
Vòng Tỏi May Mắn Chiêu Tài Hút Lộc
Nói là nóng tính, ít mưu vì Đôn hay cậy khỏe, nhiều khi say máu mất cả tỉnh táo nên bị sa mưu địch lúc nào không hay. Gò Bác Vọng là một ví dụ. Mười vạn quân Tào trong tay Đôn bị Gia Cát cho một mồi lửa đều thành tro bụi cả. Thế mà trước khi đi Đôn huênh hoang rằng: “Gia Cát Lượng chỉ như cỏ rác, chỉ cần đánh một trận là bắt sống cả Lưu Bị và Gia Cát“. Nhiều lần Đôn đã thua như thế.
Hạ Hầu Đôn lại quản quân đội không nghiêm. Thông thường, con người ít mưu, nóng tính thì hay nông nổi. Nông nổi thì nhiều khi không ý thức được tầm quan trọng của vấn đề.
Như lần đánh Trương Tú chẳng hạn. Lần ấy quân Tháo đại bại. Còn Hạ Hầu Đôn thì buông thả để quân Thanh Châu của mình về thôn quê cướp bóc nhân dân. Vu Cấm dẹp yên thì quân Thanh Châu chạy về vu khống với Tháo là Vu Cấm làm phản. Trách nhiệm ấy không thuộc về Đôn thì về ai?
Cũng như lần Tháo cự nhau với Thục quân ở hang Tà Cốc. Đánh thì không đánh được, rút về lại sợ người Thục chê cười. Tháo trong lúc miên man suy nghĩ mới truyền khẩu lệnh cho Đôn là “kê cân”. Dương Tu nghe Đôn truyền lại khẩu lệnh mới sắp xếp hành lý lên đường. Thấy lạ, Đôn hỏi thì Dương Tu bảo rằng: “cái gân gà nhả ra thì tiếc, nuốt vào thì khó. Thừa tướng đang tiến thoái lưỡng nan, nay mai cũng phải về thôi. Nên tôi thu xếp trước cho gọn”.
Hạ Hầu Đôn nghe thế, cũng cho quân thu xếp hành lý để chuẩn bị về. Tình huống thật nực cười. Nhẽ ra, là người làm tướng, Đôn chỉ nghe mệnh lệnh trực tiếp từ Tào Tháo. Khi nào Tháo bảo về, thì mới về. Mệnh lệnh quân sự phải rõ ràng như vậy. Đằng này, Đôn lại tự ý làm theo suy diễn của một anh văn sĩ, dẫu có đúng tâm lý của Tào Tháo, cũng là mắc tội vi phạm quân kỷ. Vậy mới nói Đôn cũng là người hời hợt.
Nhưng Đôn trung thành, lại theo Tào Tháo vào sinh ra tử từ những ngày đầu tiên, công lao không nhỏ. Do vậy, nhiều lần Đôn sai lầm, cũng được Tháo châm chước cho. Như những lần vừa kể chẳng hạn.
Đôn có chất chiến đấu lăn xả, ý chí thật mạnh mẽ vô cùng. Do vậy, Đôn hay được cử làm tiên phong. Giai thoại nổi tiếng nhất về Hạ Hầu Đôn, là câu chuyện Đôn tự nuốt con ngươi của mình khi bị tên bắn trúng. Lần ấy, Đôn bị Tào Tính bên Lã Bố bắn tên trúng con ngươi.
Khi Đôn rút mũi tên ra thì lôi theo cả con ngươi ra ngoài. Đôn kêu to: “tinh cha huyết mẹ không nên bỏ”, rồi đưa con ngươi vào mồm nuốt chửng. Rồi lập tức thúc ngựa xông đến kết liễu kẻ bắn lén. Nhắc đến Hạ Hầu Đôn, người ta nhớ đến hình ảnh hào hùng đến rùng mình ấy.
Hành động ấy gây cảm hứng thật, nhưng chẳng phải một mình Đôn giữ bản quyền. Nhân việc ấy, ta hãy làm một phép đối chiếu.
Khoảng 1200 năm sau, ở nước Nam xa xôi, có một người còn làm hơn thế.
Danh sĩ ấy chưa từng quen với máu me, sức trói gà không chặt nhưng vô cùng quả cảm. Tên ngài là Nguyễn Biểu.
Bấy giờ là lúc lực lượng nhà Hậu Trần do vua Trần Trùng Quang lãnh đạo đang khốn đốn với quân Minh – cầm đầu là Trương Phụ. Trương Phụ giỏi thao lược, lại tàn bạo khét tiếng. Vua Trùng Quang sai Nguyễn Biểu – một tiến sĩ, quan ngự sử – sang gặp Trương Phụ để giảng hòa, cốt để có thêm thời gian xây dựng lực lượng kháng chiến.
Trương Phụ tiếp đón sứ thần Nguyễn Biểu rất ngạo mạn. Ông ta sai mang ra một mâm cỗ, trên mâm có một cái đầu người nước Nam bị luộc chín, đang còn nghi ngút khói. Và mời Nguyễn Biểu dùng bữa.
Nếu Nguyễn Biểu ăn, sẽ mang tiếng bất nghĩa vì ăn thịt đồng bào mình. Nếu không ăn, sẽ mang tiếng khiếp nhược. Trương Phụ muốn uy hiếp Nguyễn Biểu, phá hoại cuộc đàm phán, cũng để thử xem đảm lược của vị sứ thần này ra sao.
Vị văn sĩ áo vải chưa từng xông pha trận mạc này ung dung ngồi vào mâm, ông nói một câu, giọng sang sảng: “mấy khi người Nam được ăn đầu người Bắc (người Tàu)”.
Rồi ông thong thả cầm đũa, khoét lấy đôi mắt đang trợn ngược kia, chấm vào muối và nhâm nhi. Vừa ăn, ông vừa xuất khẩu thành thơ (gọi tên là bài: Cỗ đầu người):
Trương Phụ kính phục, toan tha cho ông về. Nhưng có kẻ Việt gian tên Phan Liêu gièm pha, Trương Phụ cho bắt ông lại. Ông sang sảng mắng Trương Phụ: “Bề ngoài bay phao lên rằng, đem quân sang để làm việc nhân nghĩa, mà bề trong thì bay tìm kế mưu cướp nước người. Bay đã hứa lập con cháu nhà Trần mà còn đặt ra quận huyện để cai trị. Nào cướp của cải, nào giết nhân dân. Bay thực là bọn giặc làm càn”. (Theo “những trang sử vẻ vang” – Nguyễn Lân).
Trương Phụ giận lắm, sai cắt lưỡi của ông. Kế đó, ông ta sai trói Nguyễn Biểu vào chân cầu, để cho nước thủy triều lên cao dìm chết. Tương truyền ở dưới chân cầu ông dùng móng tay vạch vào thân cầu tám chữ: “Thất nguyệt, thập nhất nhật Nguyễn Biểu tử” (Nguyễn Biểu tử tiết ngày 11 tháng 7).
Hạ Hầu Đôn, viên tướng dũng mãnh coi thường đau đớn thể xác dám nuốt con ngươi của mình, còn Nguyễn Biểu chỉ là thư sinh trói gà không chặt nhưng can đảm, có khả năng trấn tĩnh phi thường, so về khí phách với Hạ Hầu Đôn cũng khó phân cao thấp. So về sự thông minh nhanh trí trong ứng xử, Nguyễn Biểu vượt xa Hạ Hầu Đôn.
Nước Nam xưa cũng có những đại nhân vật có hào khí không thua kém gì hào kiệt Tam Quốc vậy.
Theo NTDVN (Thanh Phong)