Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ: Người xưa kết giao trọng nghĩa hơn sinh mệnh
Người xưa thường nói: “Ngàn vàng dễ có, tri kỷ khó tìm”; “Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ”;“Có người tri kỷ trên đời, dẫu nơi góc biển chân trời chẳng xa”, là ý nói tri kỷ vô cùng hiếm có khó tìm…
Người xưa vô cùng coi trọng việc kết giao bằng hữu: đời người có được một tri kỷ thì chết cũng không hối tiếc. Quản Trọng được Bào Thúc Nha thấu hiểu tiến cử mà trở thành tể tướng nước Tề. Bá Nha và Chung Tử Kỳ chỉ nhờ một khúc “Cao sơn lưu thủy” mà thành tri kỷ. Dự Nhượng vì báo ân tri ngộ của Trí Bá mà bỏ cả tính mạng giết Triệu Tương Tử.
Cổ nhân coi trọng tri kỷ vượt xa tiền bạc danh lợi, thậm chí còn vượt qua sinh mệnh. Những điển cố lịch sử như trên nhiều vô kể, đã nói rõ đạo kết giao bằng hữu quý ở trọng nghĩa.
Bằng hữu thường được chia làm 2 loại: loại thứ nhất là tương giao (kết giao với nhau), loại thứ 2 là tương tri (hiểu nhau). Tương giao thì rất dễ, tương tri thì hiếm có. Sách Cảnh thế thông ngôn của Phùng Mộng Long đời Minh có viết: “Tương tri có mấy loại thế này: “Người kết ân đức với nhau, gọi là tri kỷ. Người thấu hiểu lòng nhau gọi là tri tâm. Người mà âm nhạc, khí chất tương đồng, gọi là tri âm”.
Cao sơn lưu thủy
Sách Cảnh thế thông ngôn đời Minh có thuật lại câu chuyện Bá Nha và Chung Tử Kỳ như sau:
Một năm, Bá Nha phụng mệnh Tấn Vương đi sứ nước Sở. Ngày 15 tháng 8, Bá Nha đi thuyền đến cửa sông Hán Dương. Đêm xuống ngắm nhìn vầng trăng sáng trên trời cao, Du Bá Nha hứng khởi đem cây đàn cầm ra, để tâm trí chăm chú chơi đàn.
Bá Nha chơi hết khúc nhạc này đến khúc nhạc khác. Đúng lúc ông đang say đắm trong tiếng đàn tuyệt diệu thì bỗng nhiên đàn đứt một dây. Lúc này ông mới phát hiện ra có người đang lắng nghe.
Nhờ ánh trăng, Bá Nha nhìn kỹ phát hiện ra đó là một tiều phu. Bá Nha trong lòng thầm nghĩ: “Một tiều phu kiếm củi, sao lại hiểu được tiếng đàn của ta?”
Thế là Bá Nha hỏi: “Ông hiểu được tiếng đàn của tôi thì xin nói cho tôi xem, khúc nhạc tôi vừa chơi là gì?”
Người tiều phu đó trả lời: “Thưa tiên sinh, khúc nhạc ngài vừa chơi là nhạc phổ Khổng Tử khen ngợi đệ tử Nhan Hồi. Chỉ đáng tiếc là khi ngài chơi đến câu thứ 4 thì đàn đứt dây“.
Câu trả lời của tiều phu không sai một chút nào. Bá Nha không nén nổi vui mừng, vội vàng mời tiều phu lên thuyền đàm đạo. Bá Nha lại đàn một khúc cho tiều phu, mời ông nói ý nghĩa khúc nhạc. Khi tiếng đàn của Bá Nha hùng tráng cao vút, người kiếm củi nói: “Tiếng đàn này biểu đạt khí thế hùng vĩ của núi cao”. Khi tiếng đàn trở nên trong trẻo mượt mà, tiều phu nói: “Tiếng đàn này biểu đạt nước chảy vô tận”.
Bá Nha nghe xong không nén nổi vui mừng, bèn dùng tiếng đàn biểu đạt tâm ý của mình, điều mà trước đây chưa có ai có thể hiểu được. Ấy thế mà người tiều phu này lại nghe hiểu rõ mồn một. Thật không ngờ ở nơi núi rừng hoang dã này lại gặp được tri âm mà mình mong mỏi tìm kiếm bấy lâu nay. Người tiều phu này chính là Chung Tử Kỳ. Hai người hận là gặp nhau sao quá muộn, cùng kết bái huynh đệ, hẹn trung thu sang năm lại tương ngộ ở nơi này.
Nào ngờ trung thu năm sau, Bá Nha đến cửa sông Hán Dương như ước hẹn, nhưng Chung Tử Kỳ đã qua đời vì bệnh tật. Trước khi lâm chung, Chung Tử Kỳ đã để lại di ngôn, muốn được chôn ở bên sông để đến ngày tương ngộ 15 tháng 8 được nghe tiếng đàn của Du Bá Nha.
Bá Nha vô cùng đau buồn, đến trước mộ Chung Tử Kỳ than thở một hồi rồi lấy cây đàn dao cầm yêu dấu ra, đàn lên một khúc tỏ lòng xót thương ly biệt, sau đó đập lên tảng đá vỡ tan tành. Bá Nha đau đớn nói: “Người tri âm (hiểu âm nhạc) nhất của ta đã không còn nơi nhân thế, đàn này còn có thể gảy cho ai nghe đây?”
Tình bạn của hai người “tri âm” đã cảm động người đời sau, mọi người xây một đài gọi là Cổ Cầm Đài ở nơi hai người tương ngộ để kỷ niệm. Cho đến tận ngày nay, mọi người vẫn thường dùng từ “Tri âm” để hình dung tình bạn giữa những người bằng hữu.
Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ
Sử ký – Thích khách liệt truyện có ghi chép câu chuyện như sau:
Dự Nhượng là người nước Tấn thời Xuân Thu. Đương thời, nước Tấn có 6 đại gia tộc tranh đoạt chính quyền. Dự Nhượng đã từng làm việc dưới trướng của gia tộc Phạm thị và Trung Hành thị, nhưng đều không được coi trọng. Sau này Dự Nhượng đầu quân cho Trí Bá, được Trí Bá cực kỳ trọng dụng.
Triệu Tương Tử và Trí Bá có mối oan thù thâm sâu. Triệu Tương Tử liên minh với hai gia tộc Hàn, Ngụy tiêu diệt Trí Bá, đồng thời lấy xương sọ Trí Bá làm cốc đựng rượu. Dự Nhượng cho rằng: “Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ, phụ nữ làm đẹp vì người làm vui lòng mình”, thế là hạ quyết tâm báo thù cho Trí Bá.
Trước tiên Dự Nhượng đổi họ tên, giả làm tội phạm trà trộn vào cung đình, mưu đồ nhân lúc sửa nhà vệ sinh dùng dao găm đâm chết Triệu Tương Tử. Nhưng lúc Triệu Tương Tử ở nhà vệ sinh, bỗng nhiên có cảnh giác, lệnh cho thuộc hạ bắt Dự Nhượng. Tùy tùng tả hữu của Triệu Tương Tử muốn giết Dự Nhượng, nhưng Triệu Tương Tử lại cho rằng, Dự Nhượng vì muốn báo thù cho chủ cũ, là người có nghĩa nên đã phóng thích ông.
Dự Nhượng vẫn không nản lòng. Để thay đổi diện mạo, giọng nói, ông đã cam lòng quét sơn lên khắp mình và nuốt hòn than nóng, sau đó cải trang thành người ăn xin để tìm cơ hội báo thù. Một lần Dự Nhượng mai phục ở dưới một cây cầu, chuẩn bị chờ khi Triệu Tương Tử đi qua sẽ đâm chết. Ngựa Triệu Tương Tử cưỡi đi đến cầu bỗng kinh sợ, hí lên không chịu đi. Triệu Tương Tử sai người lục soạt khiến kế hoạch của Dự Nhượng lại lần nữa thất bại.
Sau khi bắt Dự Nhượng, Triệu Tương Tử trách mắng rằng: “Trước kia ngươi đã làm thuộc hạ của họ Phạm và họ Trung Hành, sau khi Trí Bá tiêu diệt hai gia tộc kia, ngươi không những không báo thù cho họ, trái lại ngươi lại đầu quân cho Trí Bá. Thế thì hiện nay ngươi cũng nên đầu quân cho ta mới phải, tại sao cứ nhất định phải báo thù cho Trí Bá?”
Dự Nhượng nói: “Khi tôi làm thuộc hạ cho họ Phạm và họ Trung Hành, họ hoàn toàn không coi trọng tôi, coi tôi như những người bình thường khác. Còn Trí Bá lại vô cùng coi trọng tôi, coi tôi là nhân tài xuất sắc nhất, là tri kỷ của tôi, tôi không thể không báo thù cho ông ấy”.
Dự Nhượng biết lần này không thể không chết, thế là cầu khẩn Triệu Tương Tử rằng: “Hy vọng ngài có thể hoàn thành tâm nguyện cuối cùng của tôi, xin cởi áo ra để tôi đâm áo. Như thế, tôi dẫu chết cũng không ân hận”.
Triệu Tương Tử đồng ý, Dự Nhượng rút kiếm đâm liền 3 nhát, sau đó tự tử.
Mối thâm giao Quản – Bào
Quản Trọng là tể tướng nổi tiếng của nước Tề thời Xuân Thu. Ông phò tá Tề Hoàn Công khiến nước Tề trở thành bá chủ của Xuân Thu Ngũ Bá. Bào Thúc Nha là đại phu nước Tề, nổi tiếng là người giỏi nhìn nhận người. Hai người là bằng hữu thâm giao.
Quản Trọng phò tá công tử Củ – con trai Tề Tương Công. Bào Thúc Nha phò tá Tiểu Bạch – em trai công tử Củ. Khi hai anh em tranh đoạt vương vị, công tử Tiểu Bạch trúng tên của Quản Trọng, giả chết rồi vào cung làm vua, tức Tề Hoàn Công.
Sau khi Tề Hoàn Công lên ngôi, ông mời Bào Thúc Nha làm tể tướng. Nhưng Bào Thúc Nha lại tiến cử Quản Trọng, người đang bị giam trong nhà lao. Tề Hoàn Công tiếp thu ý kiến của Bào Thúc Nha, mời Quản Trọng làm tể tướng. Kể từ đó Quản Trọng chấp chính ở nước Tề, giúp Tề Hoàn Công xưng bá.
Sau này Quản Trọng nhớ lại rằng: “Khi ta nghèo khổ, cùng đi buôn bán với Bào Thúc Nha, lúc chia lời lãi, ta luôn lấy nhiều hơn nhưng Bào Thúc Nha chưa bao giờ cho là ta tham lam, vì ông ấy biết ta chỉ vì nghèo khổ thôi. Ta cũng đã từng mưu sự cho Bào Thúc Nha, nhưng trái lại làm cho ông ấy khốn đốn thậm tệ, rơi vào cảnh khốn cùng. Bào Thúc Nha không cho rằng ta ngu đần, vì ông ấy biết thời vận lúc thuận lợi, lúc không thuận lợi.
Ta đã từng 3 lần làm quan thì cả 3 lần đều bị quốc quân đuổi đi. Bào Thúc Nha không cho rằng ta không tốt, vì ông ấy biết ta chưa gặp được cơ hội tốt. Ta đã từng 3 lần đánh trận thì cả 3 lần đều bỏ chạy. Bào Thúc Nha không cho rằng ta nhát gan, vì ông ấy biết nhà ta còn mẹ già cần chăm sóc, phụng dưỡng.
Công tử Củ thất bại, Triệu Hốt đã tuẫn tiết theo, ta bị tù chịu nhục nhã. Bào Thúc Nha không cho rằng ta là kẻ vô liêm sỉ, vì ông ấy biết ta không cảm thấy tủi hổ chỉ vì tiểu tiết, mà chỉ cảm thấy sỉ nhục khi công danh không nổi danh thiên hạ. Người sinh ra ta là cha mẹ, nhưng người hiểu ta chỉ có Bào Thúc Nha mà thôi”.
Trước khi Quản Trọng lâm chung, Tề Hoàn Công có hỏi Quản Trọng rằng: “Bào Thúc Nha có thể thay khanh làm tể tướng được không?”
Quản Trọng trả lời: “Không được. Vì Bào Thúc Nha thiện ác phân minh, không thể bao dung được mặt xấu. Nếu giao chính quyền cho ông ấy thì sẽ hại chúa công và hại cả ông ấy”.
Sau khi Bào Thúc Nha biết được chuyện này, không những ông không bất mãn vì Quản Trọng không tiến cử ông, trái lại còn vui mừng nói: “Chỉ có Quản Trọng mới là người hiểu ta nhất”.
Liêm – Phạm báo đáp ân tri ngộ
Liêm Phạm là người sống trong những năm Vĩnh Bình thời Bắc Ngụy. Thái thú Thiểm Tây Đặng Dung từng vời ông đến bổ nhiệm làm Công tào. Không lâu sau, Đặng Dung bị tố cáo liên quan đến một vụ án. Liêm Phạm biết sự vụ này phức tạp, khó mà giải quyết nổi nên dự định dùng phép biến tông để trợ giúp Đặng Dung. Ông lấy cớ bị bệnh, xin từ chức. Đặng Dung không hiểu được dụng ý của Liêm Phạm nên rất căm hận Liêm Phạm, cho rằng ông vong ân bội nghĩa, đã rời bỏ Đặng Dung đúng lúc ông ta lâm nạn.
Liêm Phạm đến Lạc Dương, thay tên đổi họ, thỉnh cầu làm công việc của ngục tốt và đình úy. Không lâu sau, Đặng Dung quả nhiên bị bắt giải đến nhà ngục Lạc Dương. Lúc này Phạm Liêm được làm lính coi ngục, hầu hạ bên Đặng Dung, dốc toàn tâm trông nom chăm sóc ông ta. Đặng Dung thấy tướng mạo của ông rất giống Liêm Phạm, nhưng hoàn toàn không thể ngờ rằng đó chính là Liêm Phạm. Thế là Đặng Dung hỏi: “Sao ông trông giống người công tào của tôi trước kia đến vậy?”
Liêm Phạm mắng ông ta rằng: “Ông bị giam cầm ở đây, thần trí đã loạn chưa vậy?”
Sau này Đặng Dung được bảo lãnh xuất ngục, vừa nghèo khổ vừa bệnh tật, Liêm Phạm vẫn luôn ở bên Đặng Dung để chăm sóc. Sau khi Đặng Dung qua đời, Liêm Phạm đưa Đặng Dung về quê, an táng ở Nam Dương. Mọi việc xử lý ổn thỏa xong rồi mới rời đi, cũng không nói với ai họ tên thật của mình.
Một lần ân tri ngộ khiến Liêm Phạm cả đời không quên, hơn nữa còn lặng lẽ trợ giúp. Kẻ sĩ tri ân báo đáp, quả là không gì sánh nổi.
Nguồn: NTDVN