Kiến giải về Thần Phật của phương Đông và phương Tây
Thuở đầu khi sáng thế, Thần đã tạo ra con người, truyền thuyết kể rằng Thần Nữ Oa tạo ra người phương Đông, Đức Giê-hô-va tạo ra người phương Tây. Còn có các Thần thoại và truyền thuyết của các dân tộc khác trên thế giới cũng kể rằng, các vị Thần khác nhau đã tạo ra các chủng người khác nhau.
Vậy thì vị Thần tạo con người ấy, rốt cuộc Ngài hoặc các Ngài là ai? Có bao nhiêu vị Thần đã tạo ra con người? Dường như, nguồn gốc của con người xưa nay không hề nông cạn và bề mặt như những gì chúng ta biết.
Kể từ khi nhân loại có lịch sử thì đã có Thần thoại. Phương Đông có, phương Tây cũng có. Khi chúng ta so sánh Thần thoại sáng thế của phương Đông và phương Tây sẽ thấy có rất nhiều điểm tương đồng, nhưng cũng lại có những điểm khác biệt rõ ràng.
Bàn Cổ và Nữ Oa
Muốn kể hết các vị Phật, Đạo, Thần thì quả thực không kể xiết. Phật gia có Phật Thích Ca Mâu Ni, có Nhiên Đăng Cổ Phật – sư phụ của Phật Thích Ca Mâu Ni, còn có Phật Dược Sư, Đại Nhật Như Lai, Quan Âm Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát, v.v. Đạo gia có Lão Tử, Quan Y Tử, Trần Đoàn Lão Tổ, Ma Y Đạo Nhân, Xích Cước Đại Tiên, hay Thiết Quải Lý, Lã Động Tân trong Bát Tiên, v.v. Phương Tây có Chúa Giê-hô-va, Chúa Giê-su, v.v.
Thế nhưng khi nhắc đến Thần sáng thế thì Bàn Cổ và Nữ Oa nên được kể đến trước tiên. Vậy Bàn Cổ là ai? Nữ Oa là ai?
“Từ khi Bàn Cổ khai thiên địa, Tam Hoàng Ngũ Đế đến ngày nay”. Rất rõ ràng, câu này nói cho chúng ta biết rằng, là Bàn Cổ đã sơ khai ra thiên địa.
Theo cuốn “Nghệ Văn Loại Tụ” do Đường Cao Tổ Lý Uyên hạ lệnh biên soạn, trong quyển 1 có trích dẫn sách “Tam Ngũ lịch ký” viết: Trước khi được sơ khai, thiên địa hỗn độn giống như một quả trứng gà, Bàn Cổ được sinh ra từ trong hỗn độn. Trải qua một vạn tám nghìn năm, Bàn Cổ tách hỗn độn ra và khai thiên tịch địa, khí dương trong nổi lên làm trời, khí âm đục chìm xuống làm đất.
Đây chính là vũ trụ mà con người ngày nay đang ở. Nếu như nói, Bàn Cổ đã khai tịch ra thiên địa này, và đó là một vũ trụ, vậy cũng bằng như Bàn Cổ là chủ tể của vũ trụ này. Nói cách khác, Bàn Cổ chính là Thần sáng thế của vũ trụ này.
Nhưng, nếu giải thích đơn giản như vậy thì dường như không thỏa đáng cho lắm. Bởi vì, nếu Bàn Cổ là Thần sáng thế vũ trụ thì rốt cuộc Nữ Oa là ai?
Cuốn “Thuyết Văn Giải Tự” viết, chữ “Oa” này mang nghĩa “nữ Thần Thánh thời cổ hóa ra vạn vật”. Vậy nếu Nữ Oa là vị Thần hóa ra vạn vật thì Bàn Cổ lại là ai?
Có phải rất phức tạp không? Làm sao để trả lời hai câu hỏi này?
Chúng ta thử đối chiếu mô tả về hai vị Thần thượng cổ này trong cuốn “Tam Ngũ lịch ký” và “Thái Bình ngự lãm”. “Tam Ngũ lịch ký” được viết thời Tam Quốc, là tác phẩm sớm nhất ghi lại truyền thuyết Bàn Cổ khai thiên tịch địa và thời kỳ Tam Hoàng Ngũ Đế. “Thái Bình ngự lãm” là tác phẩm tổng hợp mọi phương diện của văn hóa Trung Hoa, nó được biên soạn từ năm 977 – 983 thời vua Tống Thái Tông, khi đó quốc gia mang niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc.
“Tam Ngũ lịch ký” viết: Trải qua một vạn tám nghìn năm, khai thiên tịch địa, khí dương trong nổi lên làm trời, khí âm đục chìm xuống làm đất. Bàn Cổ sinh ra từ đó, mỗi ngày biến hóa khôn lường, Thần ở trên trời, Thánh ở dưới đất, Bàn Cổ ở giữa trời và đất mà biến hóa trưởng thành, năng lực trí huệ vượt cả thiên địa, mỗi ngày cao lên một trượng. Mỗi ngày, trời cũng cao thêm một trượng, đất lại dày thêm một trượng. Cứ như thế lại trải qua một vạn tám nghìn năm nữa.
“Thái Bình ngự lãm” viết: Tục kể rằng khi khai thiên tịch địa, chưa có con người, Nữ Oa vê tròn đất vàng mà chế tạo con người, công việc vô cùng bận rộn, không có thời gian dư thừa, thế là dùng dây thừng hất đất lên, đất bay lên biến thành người.
So sánh hai đoạn trên có thể thấy, Bàn Cổ sinh ra từ hỗn độn, nhưng từ khi xuất hiện thì Nữ Oa đã có Thần thể, là nữ Thần Thánh tạo ra con người. Cũng tức là, Bàn Cổ là vị Thần sáng thế của vũ trụ, còn Nữ Oa là vị Thần sáng thế của Nhân giới (thế giới con người).
Cuốn “Sở Từ – Thiên Vấn” của nhà thơ Khuất Nguyên đã nêu ra câu hỏi: Thân thể của Nữ Oa là do ai tạo ra? Nếu như Nữ Oa Nương Nương là người đầu tiên ở nhân gian, vậy nhất định là có vị khác đã tạo ra bà. Do đó, Nữ Oa có thể là một vị Thần được sinh ra trong vũ trụ mà Bàn Cổ khai tịch. Vậy thì tầng thứ của hai vị này có thể cách biệt rất lớn.
Thế nhưng, nếu nói rằng Bàn Cổ đã khai sinh ra vũ trụ, Nữ Oa khai sinh ra Nhân giới, e rằng người phương Tây sẽ không đồng tình, thế còn Chúa Giê-hô-va của chúng tôi thì sao? Vị Thần Chủ duy nhất, vị Thần sáng thế lẽ não không phải là Đức Giê-hô-va?
Đức Giê-hô-va và điều được giảng trong ‘Kinh Thánh’
Cách gọi Giê-hô-va là do con người hiện đại đặt ra. Kỳ thực, trong “Kinh Thánh” của người Hy Lạp cổ, cách gọi này chỉ được biểu thị bằng 4 ký tự יהוה theo hệ chữ cái của người Hy Lạp cổ, cũng được gọi là Tứ tự Thần danh (Tetragrammaton, tên Thần bốn chữ). Khi chuyển sang chữ cái La-tinh thì là IHVH (Yehovah hoặc Yehowah), sang chữ cái tiếng Anh thì là JHVH (Jehovah), còn dịch sang tiếng Anh ngày nay là The Lord (Chúa).
Tứ tự Thần danh là tên do Đức Giê-hô-va tự xưng. Trong “Mười điều răn” mà Moses được Thượng Đế phán truyền có một điều như sau: “Không được cuồng vọng, ngạo mạn mà gọi tên Thần IHVH của các ngươi”. Tức là không được trực tiếp gọi tên của Thần mà phải kỵ húy. Cho nên, về sau người Do Thái đều không dám trực tiếp gọi tên của Thần, họ chuyển sang gọi là Chủ / Chúa.
Chúng ta đều biết rằng, Đức Giê-hô-va là cha của Chúa con Giê-su (Jesus), Chúa con Giê-su là con trai của Chúa cha. Thế nhưng, lật giở bất kỳ bộ giáo lý nào của Cơ đốc giáo (còn gọi là Ki-tô giáo) cũng đều thấy viết rằng, Đức Giê-hô-va là vị Thần độc nhất, duy nhất. Vậy thì những người không hiểu về Thần sẽ đặt ra nghi vấn, nếu hai vị Giê-hô-va và Giê-su có quan hệ cha con, lẽ nào Chúa Giê-su không phải Thần sao? Nếu Chúa Giê-su không phải Thần, vậy Ngài làm sao là con của Thần được?
Đặt câu hỏi như vậy dường như có chút bất kính, ở đây chúng tôi không có ý mạo phạm Thiên Chúa, chỉ là đàm luận trên tinh thần khoa học, dù sao đây cũng là điều mà mọi người muốn làm rõ. Chỉ khi làm rõ vấn đề này, chúng ta mới càng có cơ sở để tín Thần. Chúng tôi cũng tin rằng Thiên Chúa cũng sẽ không nổi giận vì điều này.
Nhà nhân loại học người Anh James George Frazer đã viết một cuốn sách tên là “Folklore in the Old Testament” (tạm dich: Văn học dân gian trong Kinh Cựu Ước). Trong đó có nhắc đến một số điểm mâu thuẫn trong “Kinh Thánh”. Ví như, Chương 1 và Chương 2 trong “Sáng Thế Ký” ghi chép hai câu chuyện về sáng tạo người, giữa hai câu chuyện có một mâu thuẫn rất rõ ràng.
Chương 1 viết: “Sau khi Thần sáng tạo ra thiên địa vạn vật, cuối cùng đã chiểu theo hình tượng của bản thân mà đồng thời sáng tạo ra nam giới và nữ giới”. Từ khóa cần chú ý ở đây là “đồng thời”. Ngoài ra, có thể thấy rõ một điều là, có Thần mang giới tính nam, có Thần mang giới tính nữ, nhưng không có Thần nào vừa là nam vừa là nữ.
Chương 2 viết: “Đầu tiên, Thần đã dùng đất trên mặt đất để tạo ra một nam giới là Adam, sau đó Thần thấy rằng một mình Adam sẽ rất cô đơn nên nhân lúc Adam đang ngủ, Thần đã lấy một cái xương sườn trên người Adam và tạo ra nữ giới”.
Vấn đề ở đây là, rõ ràng Thần có thể dùng đất để tạo ra nữ giới, cớ gì mà Ngài phải dùng xương sườn của Adam? Thứ tự sáng tạo ra trời đất, vạn vật, và con người ở hai chương cũng khác nhau. Trong Chương 2, Adam được tạo ra đầu tiên, rồi đến các sinh vật khác, cuối cùng mới đến nữ giới. Có phải khác với thứ tự ở Chương 1 hay không?
Do đó, nhà nhân loại học Frazer cho rằng, hai câu chuyện này mâu thuẫn rõ rệt, nguyên nhân cũng rất đơn giản. Bởi vì đây là hai phiên bản đến từ những tài liệu lịch sử có nguồn gốc độc lập, khác nhau. Sau đó, chúng đã được biên soạn vào làm một và trở thành phiên bản mà chúng ta đọc ngày nay. Hơn nữa, dường như người biên soạn cũng khá bất cẩn, khinh suất, không dành nhiều thời gian công sức hơn để loại bỏ những điểm bất nhất lộ liễu như vậy giữa hai chương.
Ngay như cuốn “Đạo Đức Kinh” của Lão Tử cũng đã bị sửa đổi, phiên bản mà chúng ta biết tới rộng rãi ngày nay không phải là nguyên bản nhất.
Cuối năm 1971, quân khu tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc đang chuẩn bị mở rộng, đào hầm xây dựng Bệnh viện 366 ở ngọn đồi Mã Vương Đôi. Khi đội kiến trúc bắt đầu ép cọc, họ phát hiện dưới đất bốc lên những ngọn lửa kỳ bí màu xanh lam. Các công nhân không dám khinh suất làm bừa, họ vội vàng báo lên cấp trên, mời chuyên gia tới xem.
Các nhân viên công tác của Viện bảo tàng tỉnh Hồ Nam đã vội vàng tới hiện trường. Sau khi thăm dò, thám trắc, các nhà khảo cổ phát hiện dưới đất có 3 ngôi mộ cổ, khiến giới khảo cổ học chấn động. Chúng được gọi chung là Mộ cổ Mã Vương Đôi. Những văn vật khai quật được từ đây cũng đã giúp giải đáp rất nhiều những điều khó giải trong lịch sử.
Trong đó có một ngôi mộ có tuổi đời hơn 2.000 năm, là mộ của một phu nhân tên là Tân Truy, bà là vợ của một Hầu tước từng sống trong triều đại Tây Hán. Sau khi mở mộ, các chuyên gia phát hiện ra thi thể của bà được bảo quản đặc biệt, bên cạnh còn có hàng trăm cổ vật và tài liệu có giá trị. Không ngờ rằng, trang phục bị chôn hơn 2.000 năm lại không bị mục nát, thậm chí bát ngó sen trải qua 2.000 năm mà vẫn nhìn rõ từng miếng ngó sen trong đó.
Trong ngôi mộ của Tân Truy phu nhân còn phát hiện ra một lượng lớn sách lụa và hai cuốn thẻ tre (trúc thư) về y học. Các sách lụa có nội dung vô cùng phong phú, phần lớn đều là thư sách đã thất truyền từ thời cổ, chỉ có hai cuốn còn được truyền tới ngày nay, đó là “Chu Dịch” và “Lão Tử”.
Cuốn “Lão Tử” chính là “Đạo Đức Kinh” nổi tiếng thời nay. Cuốn “Lão Tử” được khai quật từ mộ cổ 2.000 năm được chia làm Quyển 1 và Quyển 2, tính tới nay đây là phiên bản “Đạo Đức Kinh” cổ xưa nhất, nên cũng được coi là gần với bản gốc nhất. Nhưng khi các chuyên gia khôi phục được Quyển 1 và đem so sánh với phiên bản “Đạo Đức Kinh” ngày nay, họ phát hiện rằng giữa hai phiên bản có tới 700 chỗ khác nhau. Ngoài ra, do khác nhau chỉ bởi 1 chữ mà làm cho 200 câu bị đổi nghĩa rất nhiều, thậm chí có câu còn bị đổi nghĩa hoàn toàn.
Do độ dài của bài viết, tại đây chúng tôi chỉ nêu một ví dụ. Câu “Thượng thiện nhược thủy, thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh” là một câu nổi tiếng trong “Đạo Đức Kinh”. Câu này thường được dịch là: Nước là thiện nhất, nước khéo làm lợi cho vạn vật mà không tranh với vật nào; hoặc là: Người có đức hạnh thiện lương thì giống như nước vậy, làm lợi cho vạn vật mà không tranh giành kể công.
Nhưng trong cuốn “Lão Tử” được tìm thấy ở mộ cổ, câu này lại là: “Thượng thiện như thủy, thủy thiện, lợi vạn vật nhi hữu tĩnh”. Tạm dịch: Cái thiện cao nhất là thuận theo tự nhiên như dòng nước, vì thiện lương nên mới có lợi cho vạn vật, mà có được an yên.
Trong Hán ngữ cổ, chữ “nhược” kia còn mang một tầng nghĩa là “giả như, nếu như’. Còn chữ “như” trong Hán ngữ cổ lại mang nghĩa là “thuận theo, trôi theo thông suốt”. Vậy nên “thủy” trong cuốn “Đạo Đức Kinh” mang nghĩa ‘thiện đãi, có lợi cho vạn vật’, còn “thủy” trong cuốn “Lão Tử” lại mang nghĩa là ‘vì thiện lương nên mới có lợi cho vạn vật’.
Vậy từ hiện tượng này, liệu có thể suy ra rằng phiên bản “Kinh Thánh” ngày nay cũng gặp tình huống tương tự “Đạo Đức Kinh”? Bởi vì sau khi Chúa Giê-su tạ thế, các môn đồ của Ngài mới căn cứ theo trí nhớ của bản thân mà ghi chép ra những lời Chúa Giê-su từng giảng và ghép thành “Kinh Thánh”. Khi còn tại thế, Chúa Giê-su đã giảng rất nhiều điều, làm sao các môn đồ của Ngài có thể nhớ và viết lại mà không sai một chữ?
Nếu quả thực có sai sót như vậy, thì vấn đề lại càng lớn hơn. Nếu đặt câu hỏi như bài thơ “Thiên Vấn” của nhà thơ Khuất Nguyên thì: Thân thể của Chúa là do ai tạo ra?
Kỳ thực, khi bản thân Đức Giê-hô-va tạo ra thế giới, Ngài đã trả lời câu hỏi này. Trong “Kinh Thánh”, câu 26 trong Chương 1 của “Sáng thế ký” có viết, Thần nói “Chúng ta phải chiểu theo hình tượng của chúng ta, dựa theo hình dáng của chúng ta mà tạo ra loài người”.
Trong câu trên, Thần đã dùng từ chỉ số nhiều là “chúng ta” để biểu đạt. Câu trên cho thấy, Thần có phân ra Thần nam và Thần nữ, hơn nữa ở đây, Thần cũng không tạo ra ‘Thần giới’ khi khai thiên tịch địa mà chỉ tạo ra thiên địa vạn vật và con người trong ‘Nhân giới’, bởi lẽ dĩ nhiên ‘Thần giới’ đã tồn tại từ trước.
Về cơ bản, việc này giống với việc Nữ Oa Nương Nương sáng thế và tạo ra con người.
Trong “Kinh Thánh Cựu Ước – Các Vua I”, Chương 22 có các đoạn như sau:
Câu 19 viết, “Micaiah nói: ‘Các vị phải nghe lời của Đức Chúa [Giê-hô-va]! Tôi trông thấy Đức Chúa [Giê-hô-va] ngồi trên bảo tọa, tất cả quân binh trên Thiên thượng đứng chầu Ngài ở hai bên tả hữu’ ”.
Câu 20 viết, “Đức Chúa [Giê-hô-va] nói: ‘Ai sẽ đi dẫn dụ Ahab để hắn chết trong trận chiến ở Ramoth-Gilead?’. Đã có rất nhiều ý kiến được đưa ra”.
Câu 21 viết, “Cuối cùng, có một linh Thần bước ra, đứng trước mặt Đức Chúa [Giê-hô-va] và nói: ‘Tôi sẽ đi dụ hắn’ ”.
Có thể thấy, ở Thần giới của Đức Chúa Giê-hô-va có vạn quân Thiên binh, còn có các ‘linh Thần’ khác, chính họ đã đưa ra các ý kiến khi được Đức Chúa hỏi.
Nhưng câu 35 trong Chương 4 của “Sách Đệ Nhị Luật” lại viết: “Các vị đã được chỉ thị, cho nên phải biết rằng Đức Chúa [Giê-hô-va] là Thần, ngoài Ngài ra không còn ai khác”.
Câu 39 trong Chương 32 của “Sách Đệ Nhị Luật” còn viết, Đức Chúa Giê-hô-va nói: “Giờ hãy nhìn đi, ta chính là Ngài! Ngoài ta ra, không còn Thần nào khác”.
Có rất nhiều câu như vậy trong Kinh Thánh Tân Ước và Cựu Ước. Vậy thì, nếu trong Thần giới của Đức Chúa Giê-hô-va có nhiều chúng Thần như vậy, tại sao Ngài vẫn nói rằng “Ngoài ta ra, không còn Thần nào khác”? Điều này nên được giải thích thế nào đây?
Đức Chúa Giê-hô-va và Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Có học giả nghiên cứu “Kinh Thánh” phát hiện rằng, nếu như đọc kỹ càng cuốn “Kinh Thánh” sẽ thấy rằng, bên trong đó không có câu nào nói Đức Chúa Giê-hô-va là vị Thần sáng tạo vũ trụ. Cũng giống như trong các điển tích của Trung Hoa không hề có câu nào nói rằng Nữ Oa là vị Thần sáng tạo vũ trụ.
Nhưng xác thực là trong “Kinh Thánh” nhấn mạnh rằng, Đức Chúa Giê-hô-va là vị Thần tối cao trong Thần giới của Ngài.
Kỳ thực, Phật gia và “Kinh Thánh” giống nhau ở chỗ, đều vô cùng nhấn mạnh rằng phải tín phụng một cách chuyên nhất, tức là một lòng tin tưởng và đi theo pháp môn, tôn giáo, tín ngưỡng của mình. Chỉ là Phật Đà và Chúa có cách truyền thụ đệ tử khác nhau.
Trước khi niết bàn, Phật Thích Ca Mâu Ni từng giảng Pháp trên núi Linh Thứu, khai thị “Kinh Diệu Pháp liên hoa”. Khi đó, tới nghe giảng Pháp có một vạn hai nghìn đệ tử, tám vạn Bồ Tát như Văn Thù Sư Lợi, Quan Tự Tại, v.v., hai vạn chư thiên thiên tử, còn có Long Vương, con người, và cả những loài không thuộc giống người…
Bỗng chốc, thiên hoa trải xuống như mưa, đại thiên thế giới lục chủng chấn động, thiên mục của Phật Đà phát ra ánh quang, hết thảy Phật quốc và chúng sinh trong lục đạo đều được Phật quang chiếu rọi. Dưới đất lộ ra một tòa bảo tháp thất bảo của Đa Bảo Như Lai cao 500 do tuần.
‘Do tuần’ là một đơn vị đo chiều dài của Ấn Độ cổ đại, hiện nay có nhiều thuyết khác nhau về độ dài tiêu chuẩn của một ‘do tuần’ khi quy đổi ra đơn vị đo lường hiện đại. Bài viết này tạm đổi 1 do tuần bằng 11,2 km, vậy 500 do tuần tương đương với 5.600 km.
Ánh sáng phát ra từ thiên mục của Phật Thích Ca Mâu Ni còn phản chiếu cả phân thân của Phật ở vô lượng Phật quốc tại phương Đông, chư Phật đều tới đạo tràng của Phật Thích Ca mà cúng dường tòa tháp thất bảo của Đa Bảo Như Lai. Đức Phật mở cửa tháp thất bảo, chỉ thấy Phật Đa Bảo đang ngồi ngay ngắn trong tháp. Phật Đa Bảo nhường một nửa chỗ ngồi cho Phật Thích Ca Mâu Ni, đại chúng trông thấy hai vị Như Lai cùng ngồi trong tháp thì đều vô cùng hoan hỷ tán thán.
Khi giảng Pháp ở núi Linh Thứu, Đức Phật Thích Ca đã dùng Thần thông mời chúng Thần tới, thị hiện cho các đệ tử thấy rằng các vị Phật khác nhau sẽ có thế giới Phật quốc khác nhau. Ví như Phật Thích Ca Mâu Ni chủ trì Thế giới Ta Bà, Phật A Di Đà chủ trì Thế giới Cực Lạc, v.v. Cũng chính là nói, việc tu hành nhất định phải tín phụng chuyên nhất, chỉ chuyên tâm đi theo một pháp môn mà thôi, nhưng cũng không có nghĩa là phải đi phủ nhận các vị Phật khác cũng như sự tồn tại của thế giới Phật quốc khác.
Giả như nói, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Đức Chúa Giê-hô-va là chủ tể của hai thế giới Thần/Phật quốc ở trong cùng một cảnh giới, tầng thứ. Chỉ vì các đệ tử ở nhân gian vừa tu theo môn này, vừa tu theo môn kia mà trên Thiên thượng các vị Thần Phật lại mâu thuẫn, tranh giành đệ tử của nhau, vậy đó có còn là thế giới Thiên quốc không, các vị ấy còn có thể lưu lại ở cảnh giới của Thần Phật không?
Lại đặt giả thiết rằng, nếu sự việc không phải như vậy, thì tại sao vị Thần sáng thế của cả phương Đông và phương Tây đều nhấn mạnh rằng phải tín phụng chuyên nhất đây?
Để trả lời câu hỏi trên, đầu tiên chúng ta cần phải hiểu về kết cấu của vũ trụ, hiểu về Thần giới và Thần. Điều này có thể giúp chúng ta có nhận thức đúng về Thần Phật.
Kết cấu của vũ trụ và cảnh giới của Thần
Từ góc nhìn của con người tới vũ trụ, ngày nay khi chúng ta dùng kính viễn vọng sẽ thấy bán kính của vùng vũ trụ quan sát được là 46,5 tỷ năm ánh sáng (đơn vị đo chiều dài sử dụng trong khoảng cách đo thiên văn). Mà đây mới chỉ giới hạn ở vùng vũ trụ quan sát được, cũng tức là còn tồn tại vùng vũ trụ chưa quan sát được.
Các nhà khoa học suy tính rằng, tuổi của vũ trụ là 13,82 tỷ năm. Vũ trụ mênh mang này có vô lượng vô số thiên thể, tinh vân, tinh thể, thiên hà, hệ hằng tinh (hệ sao), và các hành tinh.
Hệ Ngân Hà – thiên hà chứa Hệ Mặt Trời (Thái Dương hệ) mà con người đang sinh tồn – cũng chỉ là một thành viên trong một quần thể tinh hệ. Mà quần thể tinh hệ này lại có hơn 50 thiên hà giống như Hệ Ngân Hà. Trong không gian vũ trụ, quần thể tinh hệ này chiếm cứ một khu vực có đường kính lên tới 10 triệu năm ánh sáng.
Hệ Ngân Hà là một thiên hà xoắn ốc có thanh chắn (barred spiral galaxy). Đây là thiên hà xoay theo hình xoắn ốc, có các ngôi sao tụ hợp lại tại vùng trung tâm và tạo thành một đường thẳng có dạng giống như thanh chắn. Hệ Ngân Hà có đường kính từ 100.000 – 180.000 năm ánh sáng, trong đó có 100 – 400 tỷ hằng tinh, tức là sẽ có 100 – 400 tỷ ngôi sao lớn như Mặt Trời. Vậy có thể nói là Hệ Ngân Hà chứa hàng trăm tỷ hệ hằng tinh giống như Hệ Mặt Trời.
Với sự xuất hiện của cơ học lượng tử (quantum mechanics), từ vi quan (vi mô) đã chứng thực được rằng, vũ trụ là một thời-không (thời gian và không gian) cực kỳ phức tạp, xếp chồng giao thoa, và do các hạt (hạt vật lý, còn gọi là ‘lạp tử’, tiếng Anh là ‘particle’) lớn nhỏ khác nhau kết hợp thành.
Mỗi một loại hạt lại do hạt ở tầng vi quan hơn cấu thành. Mà mỗi một loại hạt cũng như hạt ở tầng vi quan hơn cấu thành nó, cùng với các hạt có kết cấu đồng đẳng với chúng lại cấu thành các thời-không khác nhau ở hồng quan (vĩ mô) và vi quan. Mỗi một thời-không vừa độc lập, nhưng cũng lại có sự giao thoa xếp chồng, tuy là xếp chồng nhưng lại không bị trộn lẫn vào nhau.
Nghe những mô tả trên có vẻ khá là trừu tượng, chúng ta có thể hình dung như sau: Theo góc nhìn của con người từ gần đến xa sẽ thấy: tầng hành tinh (Trái Đất và 7 hành tinh khác xoay quanh Mặt Trời), tầng hằng tinh (Hệ Mặt Trời và hàng trăm tỷ hệ hằng tinh giống nó), tầng thiên hà (Hệ Ngân Hà và hơn 50 thiên hà khác ở trong cùng quần thể tinh hệ với nó), tầng quần thể tinh hệ, và các tầng xa xa hơn nữa.
Vậy 8 hành tinh quay quanh Mặt Trời sẽ được tính là 8 thời-không khác nhau thuộc tầng hành tinh. Tức là thời gian và không gian ở Trái Đất sẽ không giống với thời gian và không gian ở Sao Hỏa, Sao Kim, v.v.
Cũng vậy, Hệ Mặt Trời và các hệ hằng tinh giống nó lại được tính là các thời-không độc lập thuộc tầng hằng tinh. Hệ Ngân Hà và hơn 50 thiên hà kia lại được tính là các thời-không ở tầng thiên hà. Các tầng xa xa hơn nữa cũng tương tự như thế. Chúng vừa có thời-không của riêng mình, đồng thời lại nằm trong một thời-không khác rộng lớn hơn.
Đây chính là kết cấu của vũ trụ, tuy giao thoa xếp chồng nhưng lại không bị trộn lẫn vào nhau.
Nếu quan sát kết cấu của vũ trụ từ góc độ của cơ học lượng tử, cho dù là nhìn vào hồng quan hay vi quan, tức là nhìn vào vĩ mô hay vi mô, ta đều thấy rằng chúng vô hạn, không có cực hạn, không biết tới đâu là lớn nhất, tới đâu là nhỏ nhất, cũng giống như không có số lớn nhất hay số nhỏ nhất. Đây là cái mà Đạo gia gọi là vô cực. Vô cực là hỗn độn, hỗn độn sinh Bàn Cổ, đây chính là sự sản sinh của vũ trụ.
Tuy nhiên, nếu quay trở lại câu hỏi trong bài thơ “Thiên Vấn” của tác giả Khuất Nguyên, ta lại nảy ra nghi vấn: Thân thể của Bàn Cổ là do ai tạo ra?
Câu hỏi này phải trả lời thế nào đây? Kỳ thực, Bàn Cổ cũng không nói rõ bản thân Ngài từ đâu đến, hỗn độn là gì, tại sao lại sinh ra từ hỗn độn? Nhưng ngày nay chúng ta đều biết đến tích Bàn Cổ sinh ra từ hỗn độn, vậy có thể suy đoán rằng, bên trên Bàn Cổ còn có vị Thần khác cao lớn hơn, và vị Thần đó đã để cho con người biết rằng Bàn Cổ sinh ra từ hỗn độn.
Vậy nên, sau khi hiểu được kết cấu của vũ trụ, từ mặt logic chúng ta có thể sáng tỏ hơn về Thần giới cũng như tầng thứ, cấp bậc của Thần. Vậy cũng nói, mức độ hồng quan và vi quan của các hạt (lạp tử) sẽ quyết định tầng thứ cao thấp, mức độ lớn nhỏ của Thần. Hoặc là nói, Thần ở cảnh giới cao thấp khác nhau sẽ tạo ra thế giới Thiên quốc có tầng thứ cao thấp lớn nhỏ khác nhau.
Tại sao lại có các chủng người khác nhau?
Tới đây lại xuất hiện một vấn đề khác, nếu theo những điều ghi chép trong “Kinh Thánh”, Nhân giới là do một vị Thần tạo ra, vậy thì tướng mạo của con người trên Trái Đất này đều nên tương đương nhau, đều phải giống như vị Thần tạo ra họ, bởi vì Thần nói rằng đã chiểu theo hình tượng của bản thân mà tạo ra loài người. Nhưng quan sát xã hội nhân loại ngày nay, chúng ta có thể nhận thấy rõ có chủng người da vàng, da trắng, da đen, da đỏ, v.v. Mỗi một màu da lại có hàng nghìn hàng vạn dân tộc. Điều này nên giải thích thế nào?
Các nhà khoa học phát hiện rằng, thời-không của các hạt (lạp tử) và thời-không 3 chiều nơi con người ở, chúng có sự đối ứng. Các hạt khác nhau đối ứng với các thời-không khác nhau, các vật chất ở thời-không khác nhau cũng sẽ không tương đồng.
Mọi người biết rằng, vũ trụ là do các hạt (lạp tử) cấu thành, thân thể con người cũng thế. Điều này cũng phù hợp với cái mà Đạo gia giảng là “Thân thể người là một tiểu vũ trụ”.
Vậy thì, liệu chúng ta có thể nói rằng, Thần ở các thiên thể khác nhau đã tạo ra con người mang các tướng mạo khác nhau? Bởi thế nên màu da, tướng mạo, cũng như các đặc điểm thân thể của con người mới khác nhau?
Chẳng phải nó cũng phù hợp với thuyết “Tứ Đại” mà Đức Phật giảng hay sao, rằng Địa (đất), Hỏa (lửa), Thủy (nước), Phong (gió) đã cấu thành vạn sự vạn vật trong vũ trụ?
Phật Đà giảng, thế gian con người là một thời-không trong mê. Chúng ta đều biết rằng, so với thời-không ở tầng vi quan hơn, thời-không mà con người sinh tồn là một thời-không cực kỳ vật chất hóa. Con người có cái thân thể vật chất này nên chỉ có thể thấy được những thứ ở trong thế giới 3 chiều này. Khi vẫn ở trong thời-không này thì không thể thấy bất kỳ điều gì khác ở bên ngoài, lại càng không thể nhìn thấy Thần.
Vì không thấy nên không tin, nên lại càng khiến con người chìm sâu vào cõi mê, lại càng không thừa nhận sự tồn tại của Phật, Đạo, Thần, không tin lời răn dạy của các bậc Thánh hiền, bác bỏ những lời tiên tri và dự ngôn. Như vậy, sẽ tự rước lấy phiền phức và tai ương.
Bởi vì, nếu Thần chỉ đưa chủng người có tướng mạo giống mình, do mình tạo ra về Thiên quốc thì sao? Trong Thiên quốc của người da trắng có thể có người da vàng không? Vậy chẳng phải sẽ có người đi nhầm cửa sao?
Cũng bởi nếu con người là do Thần tạo ra, nhưng con người lại phủ nhận vị Thần tạo ra mình, vậy chẳng phải là vứt bỏ cội nguồn, Thần còn lý do gì để cứu độ người ấy về Thiên quốc hay không?
Do đó, để những đứa con mà mình tạo ra không đi lạc đường, không vào nhầm cửa, khi hóa độ con dân của bản thân, các vị Thần đều dạy bảo rằng phải tín phụng chuyên nhất, chỉ được thừa nhận một vị Thần đã tạo ra chủng người ấy. Có thể thấy, vũ trụ có vô lượng vô số Phật, Đạo, Thần, đếm không kể xiết, nên các Ngài mới đặt ra quy định này. Vì con người ở trong mê, thấy điều gì hay cũng dễ dàng tin theo, nên dễ đi sai đường.
Có thể có người cho rằng, tại sao không thể chỉ có một vị Thần chứ? Có lẽ, người nói câu này không thực sự tin vào Thần, điều họ tin là những giải thích về kinh Phật, kinh Thánh, kinh Đạo của người đời sau, người ta giải thích sao thì nghe vậy.
Trên thực tế, còn có chủng người khác do Thần tạo ra. Ví như tại di chỉ Tam Tinh Đôi được khai quật ở Tứ Xuyên, Trung Quốc, các nhà khảo cổ học đã phát hiện một tượng đồng hình người rất cao. Rất rõ ràng, họ có tướng mạo rất khác so với con người ngày nay. Có lẽ cũng còn các sắc tộc khác chưa từng xuất hiện trong tầm mắt của công chúng, nên về căn bản chúng ta không thể biết được.
Kỳ thực, không phải tất các các vị Phật, Đạo, Thần đều có cảnh giới và tầng thứ ngang nhau, dùng ngôn ngữ thông dụng của con người thì là địa vị và vai vế ngang nhau. Mà họ vừa có Thiên quốc của riêng mình, vừa độc lập tồn tại ở các tầng thứ cao thấp khác nhau, nhưng cũng lại là một thể thống nhất và tôn kính lẫn nhau.
Họ tuyệt đối sẽ không như con người, nếu không cùng tổ tiên, họ hàng hay cùng sắc tộc thì mang tâm phòng người, thậm chí đối xử kỳ thị. Nếu biến thành như vậy, Thần giới từ lâu đã trượt xuống làm Nhân giới rồi.
Thế nên, con người phải thường ôm tâm kính sợ Phật, Đạo, Thần, tuyệt đối không thể dùng tâm con người mà muốn cải biến tâm của Phật, Đạo, Thần. Có như vậy, con người mới có thể sinh ra thiện niệm, duy trì thiện niệm, giữ vững thiện niệm. Phật, Đạo, Thần độ nhân, điều các Ngài nhìn là nhân tâm.
Theo NTDVN