Luôn may mắn mỗi lần gặp nạn – Những cao nhân đã trợ giúp Tưởng Giới Thạch
Năm 2024 trong chớp mắt đã qua nửa năm, và sự trỗi dậy trở lại của dịch bệnh Covid-19, kèm theo động đất và chiến tranh, đã khiến mọi người bất an. Những thảm họa được dự đoán trước dường như đang lần lượt trở thành hiện thực. Khi thảm họa xảy ra, chúng ta nên tránh nó như thế nào? Chúng ta cùng tìm hiểu hai câu chuyện về việc gặp dữ hóa lành.
Một ngày tháng 7 năm 1925, tại cổng Học viện Quân sự Hoàng Phố, Hiệu trưởng Tưởng Giới Thạch, người vừa phát biểu xong với các tân sinh viên dưới cái nắng như thiêu đốt, chuẩn bị trở về thành phố để giải quyết công việc. Không ngờ chiếc xe bỗng nhiên bị hỏng và không thể nào khởi động được. Tài xế nhảy xuống xe kiểm tra và nói rằng động cơ có vấn đề, phải mất nửa tiếng mới sửa được.
Bởi có việc không chờ đợi được, nên Tưởng Giới Thạch lên xe khác rời đi trước. Không ngờ ngay sau khi ông rời đi thì chiếc xe hỏng đã khởi động được. Những cận vệ của Tưởng liền vội vàng lên xe và vội vã đuổi theo.
Trên đường về phải đi ngang qua “Đông Pha Lâu”. Xe mà Tưởng Giới Thạch ngồi đi qua không có vấn đề gì, nhưng khi chiếc xe ban đầu của ông, lúc này là xe mà những cận vệ của ông ngồi, đi ngang qua tòa nhà thì bị hơn 20 người phục kích. Dưới làn đạn điên cuồng, kính chống đạn của xe bị vỡ hoàn toàn, hai trong số bảy cận vệ trong xe bị giết ngay tại chỗ.
Đội trưởng trung đội cận vệ Hoàng Hữu Văn dưới sự yểm hộ của đồng đội, liều mạng lao ra, và gọi điện cho người của văn phòng của Tưởng Giới Thạch. Tưởng Giới Thạch mới biết rằng mình đã thoát một kiếp nạn.
Và đây không phải là lần đầu tiên, cũng không phải lần cuối cùng ông thoát chết. Một năm sau, Tưởng Giới Thạch nghe theo lời khuyên của một vị cao tăng, và lại thoát khỏi kiếp nạn.
Mối quan hệ giữa Hòa thượng Bố Đại và gia tộc họ Tưởng
Tháng 7 năm 1926, để thực hiện tâm nguyện cuối cùng của Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch đã dẫn quân tiến hành Bắc phạt và trở thành Tổng tư lệnh Bắc phạt. Vào giữa tháng 10, quân Bắc phạt đã tiến đến gần Nam Xương, Giang Tây.
Ngày hôm đó, khi đang tuần tra xung quanh điểm đóng quân, Tưởng Giới Thạch nghe nói gần đó có một ngôi chùa nhỏ, nên dẫn người bạn thân thiết của mình là Bạch Sùng Hi đi thăm chùa.
Cuộc chiến đang gấp gáp, tại sao Tưởng vẫn còn có lòng đến thăm một ngôi chùa nhỏ? Hóa ra Tưởng Giới Thạch là một người có Phật duyên, gia tộc họ Tưởng đã tín Phật từ nhiều đời nay. Vì vậy, khi nhìn thấy một ngôi chùa, ông luôn đến thăm và lễ bái.
Trong thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc vào cuối thời nhà Đường, gia tộc họ Tưởng chuyển đến Phụng Hóa, Ninh Ba để tránh chiến tranh. Lúc bấy giờ ở Phụng Hóa có một vị cao tăng, chính là Hòa thượng Bố Đại – người lúc nào cũng cười rạng rỡ. Theo truyền thuyết dân gian, ông là hóa thân của Đức Phật Di Lặc. Vì thế các tượng Phật Di Lặc mà chúng ta thấy hiện nay đều được làm theo mô hình của Ngài. Khi Hòa thượng Bố Đại đi vân du khắp nơi, ông đã thực hiện nhiều phép lạ. Túi vải trong tay ông giống như một kho báu, gặp người hữu duyên cần bất cứ thứ gì, thì ông cũng lấy ra thứ ấy từ trong túi vải và trao cho người đó.
Tưởng Tông Bá, tổ tiên của gia tộc họ Tưởng, rất sùng bái vị Hòa thượng này, vừa gặp liền bái Hòa thượng làm thầy, theo Hòa thượng đi vân du trong ba năm. Sau đó, Hòa thượng Bố Đại đã truyền lại chiếc túi vải quý giá của mình cho Tưởng Tông Bá. Để báo đáp người thầy của mình, Tưởng Tông Bá xây dựng “Phụng Sư Tháp” để tưởng nhớ Hòa thượng Bố Đại.
Vì mối quan hệ này mà bầu không khí tín ngưỡng Phật giáo trong gia đình họ Tưởng ở Phụng Hóa bền chặt qua nhiều thế hệ, và thế hệ Tưởng Giới Thạch cũng không ngoại lệ. Khi Tưởng Giới Thạch còn rất nhỏ, ông nội Giang Tư Thiêm thường đưa ông đi lễ Phật ở chùa Tuyết Đậu gần nhà. Mẹ Tưởng Giới Thạch là Vương phu nhân cũng thường xuyên giảng giải kinh Phật cho con trai. Vì vậy, dù sau này Tưởng Giới Thạch nhập ngũ và phục vụ nửa cuộc đời trong quân đội, nhưng trong lòng ông vẫn luôn có Phật.
Đó cũng là lý do tại sao cả đời ông ta lại khoe cái đầu trọc? Theo vợ của Tưởng, bà Tống Mỹ Linh, chính vì ông đã được đại sư của chùa Tuyết Đậu truyền dạy khi còn trẻ, và ông rất kính ngưỡng Phật môn, nên ông đã quyết định không để tóc suốt đời.
Cao tăng chỉ dẫn tránh khỏi kiếp nạn
Sau khi lễ Phật, ông thuận tay rút thẻ và nhờ nhà sư bên cạnh giải thích. Tên thẻ là một bài thơ Đường “Thạch đầu thành”, hai dòng cuối cùng có nội dung: “Hoài Thủy đông biên cựu thời nguyệt, dạ thâm hoàn quá nữ tường lai”, nghĩa là: “Phía đông Hoài Thủy trăng xưa ấy, đêm khuya còn vượt tường mò đến”
Nhà sư nhận thẻ và hỏi: “Thí chủ hỏi về điều gì?”
Tưởng Giới Thạch nói rằng ông muốn biết cuộc chiến thắng thua ra sao. Nhà sư nói rằng, cuộc chiến nhất định sẽ thắng lợi, nhưng ông phải cẩn thận để không bị người khác cắt đứt đường rút lui, và đề phòng có kẻ đến đánh úp vào lúc nửa đêm. Nhà sư căn dặn: “Ông thấy đó “Đêm khuya còn vượt tường mò đến”, có người vượt tường vào lúc nửa đêm, ban đêm hãy cẩn thận”.
Tưởng Giới Thạch nghe xong gật đầu, để lại 200 đồng bạc, không nói thêm lời nào và rời đi. Vừa trở về, ông điều động thêm quân và ra lệnh cho trung đoàn cảnh vệ canh gác tăng cường cảnh giác.
Cùng lúc đó, tại thành phố Nam Xương, quân của quân phiệt Tôn Truyền Phương đang ngày đêm đào đường hầm, lối ra của đường hầm nằm gần nơi đồn trú của Tưởng Giới Thạch. Nửa đêm ngày hôm đó, đường hầm cuối cùng cũng được đào xong. Lợi dụng đêm tối và gió lớn, hơn 2000 tinh binh ra khỏi đường hầm mà không ai hay biết, tiến thẳng về trụ sở của Tưởng Giới Thạch. Không ngờ, chưa kịp đánh lén thì đã bị bao vây trước. Thì ra quân Bắc phạt đã chuẩn bị sẵn. Quân của Tôn Truyền Phương sợ hãi, nhanh chóng mất đi sức chiến đấu, khoanh tay chịu trói.
Sau đó, viên sĩ quan bị bắt thú nhận rằng, mục đích của cuộc tấn công là “cắt đứt đường rút lui của các anh”, điều này thực sự giống với thẻ xăm được nhà sư trong ngôi chùa nhỏ giải thích. Nhờ đó, dưới sự chỉ dẫn của cao tăng, Tưởng Giới Thạch đã thoát khỏi một kiếp nạn khác.
Sự cố Tây An bình an trở về, đằng sau chính là một cao nhân
Năm 1936, sự kiện Tây An xảy ra gây chấn động cả Trung Quốc và thế giới. Tưởng Giới Thạch bị Trương Học Lương bắt giữ, đó là một thảm họa. Tống Mỹ Linh muốn giải cứu ông, nhưng bà lại muốn đến đó một mình, đối phương lại là một người hung hãn và quyền lực, nên số phận bi thảm là khó tránh khỏi. Lúc này, một vị nguyên lão Quốc Dân Đảng đã giới thiệu cho bà đại sư mệnh lý Vi Thiên Lý.
Gọi đại sư nhưng kỳ thực khi đó Vi Thiên Lý mới 25 tuổi. Tuy nhiên, năm 16 tuổi ông đã xuất đạo rồi. Ông kế thừa công việc kinh doanh của cha và mở một tiệm toán mệnh ở Thượng Hải. Tuy còn trẻ nhưng tài toán mệnh của ông rất cao. Ông đã nổi tiếng từ khi còn trẻ, thậm chí các chức sắc, người thành đạt cũng đổ xô đến để xem mệnh. Nhiều quan chức cấp cao của Quốc Dân Đảng là những người hâm mộ trung thành của ông. Năm 1935, ở tuổi 24, ông xuất bản cuốn sách ghi lại kinh nghiệm xem mệnh thực tế của mình, cuốn sách này ngay lập tức trở thành sách bán chạy. Đây là kho tàng kinh điển “Thiên Lý mệnh cảo” về toán mệnh.
Với bản lý lịch đầy thuyết phục này, không có gì đáng ngạc nhiên khi Tống Mỹ Linh đã mời Vi Thiên Lý đến. Sau khi đến, Vi Thiên Lý gieo một quẻ đơn giản, sau đó so sánh Bát tự (giờ sinh) của Tưởng Giới Thạch hai lần và nói: “Thưa bà, bà đừng lo lắng, Tưởng công không gặp nguy hiểm tính mạng”.
Lời nói của Vi Thiên Lý đã xua tan nỗi lo lắng cuối cùng của Tống Mỹ Linh. Sau đó, bà một mình đến Tây An, và đưa được Tưởng Giới Thạch trở về an toàn, tạo nên một câu chuyện truyền kỳ của Trung Hoa Dân Quốc “thiên lý cứu phu” (vượt ngàn dặm cứu chồng). Vi Thiên Lý cũng vì thế càng trở nên nổi tiếng.
Đại sư Hư Vân tiên đoán Thế chiến thứ hai kết thúc
Trên thực tế, kể từ khi Tưởng Giới Thạch thành lập Chính phủ Dân Quốc, và trở thành nhà lãnh đạo trên thực tế của Trung Quốc, xung quanh ông luôn có những cao nhân trợ giúp. Quốc sư Chương Gia là một trong số đó. Tưởng Giới Thạch làm theo đề nghị của Chương Gia dời đô từ Nam Kinh đến Trùng Khánh, cuối cùng lật ngược tình thế và giành chiến thắng trong Thế chiến thứ hai.
Có một nhà sư nổi tiếng khác của Trung Hoa Dân Quốc, Hòa thượng Hư Vân, người đã theo Tưởng Giới Thạch đến Trùng Khánh. Vào thời điểm đó, nhiều chức sắc chính trị đã quy y, trở thành đệ tử của Hòa thượng Hư Vân.
Hòa thượng Hư Vân cũng đưa ra tiên tri kết quả của Thế chiến thứ hai cho Tưởng Giới Thạch.
Vào tháng 12 năm 1942, Hòa thượng Hư Vân được chính phủ mời chủ trì “Pháp hội Đại Từ bi hộ quốc và chấm dứt tai họa” tại Trùng Khánh. Ông đã thực hiện các nghi lễ trong tổng cộng 49 ngày, cầu nguyện xoay chuyển quốc vận và tiêu trừ tai họa. Nó cũng được coi là một hình thức hỗ trợ chống Nhật Bản của giới Phật giáo.
Tưởng Giới Thạch là một trong những người tổ chức Pháp hội, và Đới Quý Đào, một nguyên lão của Quốc Dân đảng, là trưởng ban tổ chức Pháp hội. Ngày hôm đó, Tưởng Giới Thạch, Đới Quý Đào và Hòa thượng Hư Vân cùng nhau ăn chay. Trong bữa tối, họ tự nhiên nói về vấn đề kết cục của cuộc chiến.
Hòa thượng Hư Vân lấy trong túi ra một mảnh giấy, và nhờ người bên cạnh mang đến một chiếc kéo. Ông gấp nó theo chiều ngang và chiều dọc nhiều lần và cắt nó ba lần, mảnh giấy nhỏ này hiện ra ba ký chữ: đầu tiên là chữ “Thập” (十), sau đó là chữ “Vạn” (卐), và cuối cùng là chữ “Nhật” (日).
Những người ngồi trong bàn đều hiểu ngay. Quân đội Ý luôn được gọi là “Thập tự quân”. Thế thì chữ “Thập” ám chỉ Ý. Khi đó chữ “Vạn” đương nhiên ám chỉ Đức Quốc xã. Chữ “Nhật” cuối cùng là Nhật Bản.
Sau này, khi Thế chiến thứ hai kết thúc, Ý đầu hàng trước, sau đó Đức bị chiếm đóng. Cuối cùng, Nhật Bản tuyên bố thất bại, tuyên bố chính thức kết thúc Thế chiến thứ hai đúng như lời Hòa thượng Hư Vân đã nói.
Sau khi cắt ra ba chữ, Hòa thượng Hư Vân suy nghĩ một lúc rồi nói rằng, sau chiến thắng trong Chiến tranh chống Nhật, Trung Quốc sẽ có diện mạo khác.
Vậy họ có diện mạo khác như thế nào? Không phải Chính phủ Dân Quốc một lần nữa thống nhất thiên hạ sao? Hòa thượng Hư Vân không nói nữa. Thiên cơ bất khả tiết lộ, Tưởng Giới Thạch cũng không gặng hỏi tiếp.
Và lịch sử sau đó thế nào thì giờ đây mọi người đều đã biết.
Hòa thượng Hư Vân một mình thuyết phục Đại nguyên soái
Trên thực tế, Hòa thượng Hư Vân không chỉ là khách của chính phủ Tưởng Giới Thạch, mà còn là một thế ngoại cao nhân được Tôn Trung Sơn coi trọng.
Khi Trung Hoa Dân Quốc mới được thành lập, xã hội dấy lên phong trào theo đuổi phương Tây hóa và phá hủy chùa chiền.
Vào thời điểm đó, Hòa thượng Hư Vân là trụ trì của chùa Chúc Thánh trên núi Kê Túc ở Đại Lý. Theo truyền thuyết, núi Kê Túc là nơi Đại Ca Diếp, đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, ẩn mình chờ đợi sự xuất hiện của Đức Phật Di Lặc tương lai, nên ở đó có rất nhiều chùa. Lúc bấy giờ Đại nguyên soái Lý Căn Nguyên đang trấn giữ Vân Nam, cũng theo phong trào và phá hủy nhiều tu viện trên núi Kê Túc. Ông ta dùng vũ lực xua đuổi các nhà sư, buộc họ phải hoàn tục, thậm chí còn giết chết họ.
Ngày hôm đó, Hòa thượng Hư Vân một mình đến chùa Tất Đàn, nơi Đại nguyên soái đóng quân.
Lý Căn Nguyên vừa nhìn thấy Hòa thượng Hư Vân liền hét lên lớn: “Tu Phật có gì tốt?“
Hòa thượng Hư Vân nói: “Từ xưa đến nay, đất nước được cai trị bằng chính trị và văn hóa, người dân được giáo hóa bởi Phật Pháp. Phật Pháp trước hết dạy con người trị sửa cái tâm mình. Tâm là gốc rễ của vạn vật, mọi điều thiện và mọi điều ác đều phát sinh từ cái tâm, nếu tâm ngay chính, thì vạn vật yên bình, thiên hạ thái bình”.
Lý Căn Nguyên nghe thấy điều này có lý, ông ta đã kiềm chế bản thân một chút. Sau đó ông ta lại hỏi: “Những bức tượng bằng đất sét bằng gỗ này để làm gì? Thật lãng phí tiền bạc”.
Hòa thượng Hư Vân cho biết, tượng Phật tuy được làm bằng đất sét bằng gỗ, nhưng thể hiện tấm lòng từ bi trang nghiêm của Thần Phật, khiến tất cả chúng sinh sinh lòng kính úy. “Nếu con người không có lòng kính úy, thì không điều ác nào mà không làm, sẽ gây ra đại loạn, đại họa. Bất kể là tượng bằng đất sét bằng gỗở Trung Quốc, hay tượng đồng ở nước ngoài, đều là để khiến cho con người trông thấy mà sinh thiện niệm, cái tâm trở về với thiện lương”.
Sau khi nghe điều này, Lý Căn Nguyên mỉm cười, nhưng sau đó tiếp tục nói rằng, ông đã thấy nhiều hòa thượng làm việc xấu.
Hòa thượng Hư Vân nói, không thể thấy một hai tú tài bất hảo liền mắng chửi Khổng Tử phải không? Thiên hạ có rất nhiều hòa thượng, ngài cũng không thấy một hai hòa thượng bất hảo mà trục xuất tất cả, không cho họ học Phật nữa, phải không? Nếu những hòa thượng có căn cơ xấu kia tu tập tốt, thì dần dà, trong thời gian dài, cái căn cơ xấu đó của họ sẽ bị loại bỏ, ngài phải cho họ một cơ hội.
Lý Căn Nguyên càng nghe thì càng có lý, càng nói chuyện với Hòa thượng Hư Vân thì càng thấy tâm đầu ý hợp. Đêm đó hai người trò chuyện dưới ánh nến. Lý Căn Nguyên tiếc nuối nói: “Thì ra Phật Pháp rộng lớn như vậy, nhưng tôi đã giết hòa thượng, phá chùa chiền, tội nghiệp rất sâu, làm thế nào bây giờ?”
Hòa thượng Hư Vân khuyên ông ta rằng: “Nếu hôm nay Đại nguyên soái có thể dốc toàn tâm sức bảo vệ tăng nhân và chùa chiền, thì cũng sẽ có được đại công đức giống như thế”.
Lý Căn Nguyên vui mừng khôn xiết, và đến chùa Chúc Thánh cùng Hòa thượng Hư Vân vào lúc bình minh. Khi mặt trời ló dạng, ánh sáng vàng kim của núi Kê Túc hiện ra, từ đỉnh núi đến chân núi, mọi cây cỏ đều nhuộm sắc vàng kim. Loại ánh sáng vàng kim này rất hiếm. Người dân địa phương nói rằng, họ chỉ nhìn thấy nó một vài lần kể từ khi khai thiên tịch địa.
Lý Căn Nguyên lúc đó rất cảm động, đã bái Hòa thượng Hư Vân làm thầy, và đề nghị ông làm trụ trì các ngôi chùa khác nhau ở núi Kê Túc. Từ đó trở đi, Đại nguyên soái trở thành người bảo vệ các ngôi chùa Phật giáo, học các pháp tu Phật, và bắt đầu bố thí cho người dân.
Sau khi ông Tôn Trung Sơn biết được sự việc này, ông cho rằng, điều đó thật đáng kinh ngạc. và hẹn gặp Hòa thượng Hư Vân. Hai người đã nói về mối quan hệ giữa Kitô giáo và Phật giáo.
Mặc dù Tôn Trung Sơn trở về từ nước ngoài và tin vào Cơ Đốc giáo, nhưng ông tương đối cởi mở, và chủ trương sử dụng nền dân chủ và cộng hòa ở hải ngoại để cứu Trung Quốc. Ông cho rằng, Thiên Chúa giáo chủ trương “bác ái” và khuyến khích việc “cho đi”, Phật giáo chủ trương “từ bi” và chủ trương “thí xả”; Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu kẻ thù nghịch” (Ma-thi-ơ 5:44). Phật giáo nhấn mạnh “kẻ thù và người thân đều bình đẳng”, chính là nói, bất kể đối phương là kẻ địch hay người thân, đều không được tính toán, dùng lòng quan tâm đối đãi với người ta. Vì vậy, suy đến tận cùng, có thể nói cả 2 gia phái là hai con đường khác nhau đều về cùng một đích.
Hòa thượng Hư Vân nói, đúng vậy, đúng vậy, có một cuốn sách bị cấm trong Cơ Đốc giáo, được viết bởi Peter, một môn đồ của Chúa Giêsu, có tên là “Thủy thượng môn đồ hành truyện”. Trong sách có viết, sau năm 18 tuổi, Chúa Giê-su đã dành hơn mười năm để nghiên cứu Phật giáo ở Ấn Độ, sau đó đi qua Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, và trở về Israel để thuyết Pháp.
Trên thực tế, từ lúc Chúa Giê-su tranh luận công khai với một nhóm trưởng lão ở tuổi 12 cho đến khi Ngài bước ra rao giảng ở tuổi 32, Kinh Thánh không ghi khoảng thời gian 20 năm giữa hai thời điểm này. Không ai biết Chúa Giêsu đi đâu. Trong số nhiều cách giải thích, phiên bản sang phương Đông học Phật hiện nay là phiên bản được chấp nhận rộng rãi nhất.
Tôn Trung Sơn rất ngạc nhiên sau khi nghe Hòa thượng Hư Vân giải thích. Thứ nhất, việc Chúa Giêsu nghiên cứu Phật giáo là điều gây sốc. Thứ hai, vì cuốn sách này bị cấm và là bí mật của Cơ Đốc giáo phương Tây, làm sao Hòa thượng Hư Vân lại biết về nó? Hòa thượng Hư Vân này dường như không phải là “hư ảo”.
Năm 1913, Tôn Trung Sơn đặc biệt khắc một tấm bảng cho chùa Chúc Thánh ở núi Kê Túc, nơi Hòa thượng Hư Vân làm trụ trì, có tên là “Ẩm Quang nghiễm nhiên”. “Ẩm Quang” là tên của Đại Ca Diếp.
Tuy nhiên, sau khi eo biển Đài Loan bị chia cắt vào năm 1949, Hòa thượng Hư Vân vẫn ở Đại lục, và có thái độ khác với lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc. Ông luôn cự tuyệt, không chịu gặp mặt, sau này ngồi tọa hóa.
Trên thực tế, từ xưa đến nay, các hoàng đế đều được bao quanh bởi những cao nhân để bảo vệ họ, và để lại nhiều câu chuyện giai thoại, chẳng hạn như Lý Thuần Phong, người ở bên cạnh Hoàng đế Đường Thái Tông, và Lưu Bá Ông, người đã từng ở bên cạnh Chu Nguyên Chương của nhà Minh, và đã giúp họ đạt được bá nghiệp.
Nhưng Thác Bạt Đào, Hoàng đế Thái Vũ của triều Bắc Ngụy, lại không may mắn như vậy, vì đã mời nhầm quốc sư. Quốc sư Thôi Hạo rất giỏi tính toán, chỉ cần nghe lời Quốc sư thì bất khả chiến bại, cho nên Thác Bạt Đào rất tin tưởng. Thôi Hạo tin vào Đạo giáo, chủ trương tôn thờ Đạo giáo và bãi bỏ Phật giáo. Thác Bạt Đào nghe theo lời Quốc sư, đốt chùa, phá hủy tượng Phật, và tạo ra rất nhiều nghiệp chướng. Tuy nhiên, kết cục của ông ta rất bi thảm, chết dưới tay bọn hoạn quan, hai con trai ông cũng bị giết. Bản thân Thôi Hạo cũng bị giết và cả gia tộc bị tiêu diệt.
Như vậy, xung quanh người lãnh đạo cao nhất luôn có những cao nhân, chọn đúng thì gặp dữ hóa lành, còn chọn sai thì lành hóa dữ. Làm thế nào biết được cao nhân đích thực? Đó là ngoài tài năng, hiểu biết rộng, sâu, thì điều quan trọng hàng đầu là phẩm đức.
Nguồn: ntdvn (Trung Hòa biên dịch)