Lưu Bá Ôn trả lời Chu Nguyên Chương, tưởng nịnh vua, gần 300 năm sau mọi người mới hiểu được Thiên cơ

untitled-1-recovered-4

Nếu như nói rằng khí số của một vương triều đã được định sẵn ngay từ khi sinh ra, ai sẽ là hoàng đế cuối cùng của vương triều đó, có thể nhiều người sẽ không tin. Nhưng thần cơ diệu toán Lưu Bá Ôn đã tiên tri về số mệnh của nhà Minh và ứng nghiệm.

Truyền thuyết kể rằng, Chu Nguyên Chương, vị hoàng đế sáng lập nhà Minh, đã hỏi Lưu Cơ (Lưu Bá Ôn), mưu thần phò tá ông gây dựng cơ nghiệp đế vương, rằng: “Việc thiên hạ sẽ ra sao? Gia tộc họ Chu có được hưởng thiên hạ lâu dài không?”.

Lưu Bá Ôn trả lời: “Hoàng triều ta vạn tử vạn tôn, Bệ Hạ hà tất phải hỏi!”.

Lúc đó, Lưu Bá Ôn đến gặp Chu Nguyên Chương, vua đang ăn bánh nướng. Câu trả lời này khiến Chu Nguyên Chương nghĩ rằng đó là một lời xu nịnh, vì vậy ông nói: “Mặc dù từ thời cổ đại, hưng vong đã được định sẵn, huống hồ thiên hạ không phải thiên hạ của một người, chỉ có người có đức hạnh mới có thể hưởng nó. Cứ nói về chuyện này thôi, có gì đâu, khanh thử nói sơ lược xem sao”.

Để có cuộc sống bình an và hút nhiều tài lộc, hãy tham khảo các vật phẩm phong thủy thủ công của Hòn Ngọc nhé!

Người xưa luôn tin vào mệnh trời, biết ý trời không thể làm trái, hoàng đế cũng không ngoại lệ. Thế là sau đó, Chu Nguyên Chương và Lưu Bá Ôn người hỏi người đáp một loạt vấn đề. Cuộc đối đáp này đã được viết thành cuốn sách tiên tri nổi tiếng có tên “Thiêu Bính Ca” (Bài ca Bánh nướng).

Vạn tử vạn tôn” (vạn con vạn cháu) có thực sự là lời xu nịnh vị hoàng đế sáng lập nhà Minh Chu Nguyên Chương hay không? Hay nó ẩn chứa huyền cơ gì?

Vào những năm cuối cùng triều đại nhà Minh, thiên tai nhân họa liên miên, dị tượng trùng trùng. Sau khi Hoàng đế Vạn Lịch Minh Thần Tông băng hà, thái tử Chu Thường Lạc kế vị, lấy hiệu là Minh Quang Tông.

Lúc này, Trịnh Quý Phi, mẹ ruột của Phúc Vương Chu Thường Tuân – em trai cùng cha khác mẹ của Minh Quang Tông, đã dâng lên tám mỹ nữ để lấy lòng ông. Kết quả là, Minh Quang Tông ngã bệnh sau mười ngày nắm quyền. Đề đốc thái giám của Ngự dược phòng (phòng thuốc hoàng gia) đã cho vua uống thuốc xổ.

Sau đó, Lý Khả Chước, viên quan phụ trách Hồng Lô Tự – cơ quan phụ trách việc tiếp đón và thể thức lễ nghi với những sứ đoàn từ các triều hoặc nước khác đến, lại dâng lên vua hai viên thuốc màu đỏ (hồng hoàn). Cuối cùng, Minh Quang Tông nắm quyền chưa được ba mươi ngày thì đột ngột qua đời.

Chân dung Minh Quang Tông Chu Thường Lạc. (Bộ sưu tập của Bảo tàng Cung điện Quốc gia Đài Loan)Chân dung Minh Quang Tông Chu Thường Lạc. (Bộ sưu tập của Bảo tàng Cung điện Quốc gia Đài Loan)
Chân dung Minh Quang Tông Chu Thường Lạc. (Bộ sưu tập của Bảo tàng Cung điện Quốc gia Đài Loan)

Năm 1620, con trai cả của Hoàng đế Quang Tông là Chu Do Hiệu vội vã đăng cơ ở tuổi mười sáu, lấy hiệu là Minh Hy Tông. Vì cha của Hy Tông không được tổ phụ (ông nội) Thần Tông yêu quý, nên từ nhỏ ông đã không được học hành chính quy, lên ngôi mà không có sự chuẩn bị gì. Sau khi lên ngôi, vua được Đại học sĩ Tôn Thừa Tông giảng dạy.

Trong thời kỳ này, nội bộ triều Minh xuất hiện việc thái giám Ngụy Trung Hiền và nhũ mẫu của Hoàng đế Hy Tông là Khách thị lôi kéo những người đối lập với Đông Lâm đảng rồi lập ra Yêm đảng. Từ đây nổ ra các cuộc tranh chấp gay gắt giữa hai đảng này.

Còn ở bên ngoài, vào những năm cuối thời Minh Thần Tông (năm 1616), thủ lĩnh Nỗ Nhĩ Cáp Xích của bộ tộc Nữ Chân đã thành lập Đại Kim (lịch sử gọi là Hậu Kim) ở Hách Đồ A Lạp (nay thuộc tỉnh Liêu Ninh), và xưng là Đại Hãn, đặt địa vị ngang với nhà Minh.

Sau đó từ năm 1618, Đại Kim bắt đầu xâm lược nhà Minh và chiếm đóng khu vực Liêu Ninh, Thẩm Dương, giành được một vùng đất rộng lớn. Năm 1625, Nỗ Nhĩ Cáp Xích dời đô từ Liêu Dương đến Thẩm Dương. Năm 1626, Nỗ Nhĩ Cáp Xích bại trận Ninh Viễn và qua đời vào cùng năm.

Các Thiên tướng chuyển sinh vào nhà Thanh theo ý trời. (Ảnh minh họa: một phần bức tranh vẽ vào thời Thanh)Các Thiên tướng chuyển sinh vào nhà Thanh theo ý trời. (Ảnh minh họa: một phần bức tranh vẽ vào thời Thanh)
Các Thiên tướng chuyển sinh vào nhà Thanh theo ý trời. (Ảnh minh họa: một phần bức tranh vẽ vào thời Thanh)

Con trai của Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Hoàng Thái Cực kế vị ông, trở thành vị Đại Hãn thứ hai của nhà Hậu Kim, cũng là Hoàng đế sáng lập triều đại nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc.

Kế Lục Kỳ (1622–1687), nhà sử học cuối thời Minh đầu nhà Thanh, tác giả cuốn “Minh Quý Bắc Lược”, từng nghe cha mình kể:

Khi ta còn nhỏ đã gặp một Đạo sĩ Hoa Sơn. Vị Đạo sĩ nói: Trương Chân nhân ở Giang Hữu đã dựng đàn làm phép ở Bắc Đô, quỳ dưới tế đàn hồi lâu, không thấy các vị Thần trên Trời, chỉ thấy một mình Quan Thánh (Quan Vũ) đang canh giữ cổng trời. Chân Nhân hỏi: Các vị Thần đã đi đâu cả rồi?

Quan Thánh nói: Bây giờ có Thiên tử mới ra đời, các vị Thần đều hạ giới để hỗ trợ người đó rồi.

Chân nhân hỏi: Vậy sao ngài không đi?

Quan Thánh nói: Ta nhận ân lớn của nhà Minh, nên ta không đi“.

Lúc đó là những năm cuối thời Minh Thần Tông Vạn Lịch, thiên hạ vẫn ổn định, không ai tin điều này. Chỉ khi đến thời nhà Thanh, người ta mới biết lời nói trên đã ứng nghiệm.

Năm 1627, sau khi Minh Hy Tông Chu Do Hiệu băng hà, vì ông không có con trai nên người em cùng cha khác mẹ là Chu Do Kiểm được kế vị. Chu Do Kiểm lên ngôi khi chưa đầy 18 tuổi, đến năm thứ hai thì đổi hiệu thành Sùng Trinh. Hoàng đế Sùng Trinh tuy có nhược điểm về tính cách, nhưng ông thực sự rất siêng năng và tự giác, không ham mê múa hát tửu sắc, hết lòng trị quốc.

Tương truyền, sau khi Sùng Trinh lên ngôi, hàng năm ông đều tổ chức lễ “thỉnh Tiên” để hỏi vận thế của đất nước trong năm tới, không lần nào là ông không được đáp lại.

“Thỉnh Tiên giáng bút” là một hình thức tiên tri lưu truyền ở Trung Quốc. Đây là một phương pháp tiên đoán có nguồn gốc từ Đạo giáo. Phương pháp này sau đó cũng lan ra các nước Á Đông, ở Việt Nam gọi là “giáng bút”, “cơ bút”. Loại hình này cần có một người trung gian là người viết ra chỉ dụ của Thần Tiên, gọi là “kê đồng”.

Nhưng có một lần, phải đợi rất lâu thì Võ Đế mới giáng lâm đáp lại lời thỉnh mời của Hoàng đế Sùng Trinh. Kê đồng viết: “Các Thiên tướng đều đã hạ thế, không còn ai để đáp lời thỉnh gọi”.

Vua Sùng Trinh lại bái lạy và hỏi rằng các vị Thiên tướng giáng trần để làm gì? Còn vị nào chưa hạ thế không?

Kê đồng viết: “Chỉ còn Hán Thọ Đình Hầu (hiệu của Quan Vũ) nhận ân lớn của nhà Minh nên không đành hạ xuống“.

Sau đó Hoàng đế có hỏi thêm câu gì cũng không được đáp lại. Kỳ thực, các Thiên tướng đã thuận theo Thiên ý mà giáng hạ vào nhà “Đại Thanh”.

Tại sao Quan Vũ lại nói rằng ông nhận ân lớn của nhà Minh?

Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã xây dựng miếu Quan Công trên núi Kê Lung ở Nam Kinh vào năm Hồng Võ thứ hai mươi bảy (năm 1394). Sau đó hàng năm, Thái Thường Tự – cơ quan phụ trách việc thi hành những thể thức lễ nghi của triều đình – đều tổ chức tế lễ ở Nam Kinh. Phủ Thiên Ứng (ban đầu là kinh đô) cũng tổ chức tế lễ 5 lần mỗi năm.

Vào những năm Vĩnh Lạc (1403–1424), Minh Thành Tổ lại xây miếu Quan Công. Đến năm Thành Hóa thứ mười ba (năm 1477), Minh Hiến Tông cũng xây miếu Quan Công ở phía đông của huyện Uyển Bình. Hai nơi này cũng được Thái Thường Tự tổ chức lễ tế hàng năm.

Không có gì ngạc nhiên khi Quan Công nói rằng ông nhận ân lớn của nhà Minh.

Vào ngày mồng một tháng Giêng âm lịch năm Sùng Trinh thứ mười bảy (năm 1644), trời nổi gió lớn, nhà cửa rung chuyển, cát bay tứ phía, trời tối mịt mù không nhìn thấy ai. Chiêm quẻ nói: “Gió khởi can qua, quân chủ nổi lên, binh lính phá thành”.

Khi đó, Cốc Quốc Trân, người bảo vệ lăng ở Phượng Dương, tấu lên rằng đã xảy ra động đất. Cũng vào ngày này, Sấm Vương Lý Tự Thành xưng đế ở Tây An, lập ra “Đại Thuận”.

Cùng lúc trời nổi gió mù mịt và động đất, Hoàng đế Sùng Trinh vô cùng lo lắng, ông liền tắm gội, thắp hương, lễ bái trời và thầm khấn vái: “Nếu hôm nay thiên hạ đại loạn, thỉnh cầu Chân Tiên giáng lâm, nói thẳng cho trẫm biết giang sơn còn hay mất, xin đừng che giấu“.

Tiên lập tức giáng, kê đồng viết: “Đế hỏi chuyện thiên hạ, quan tham lam vòi tiền, tám phương thất xứ loạn, mười bếp chín không khói. Lê dân khổ càng khổ, càn khôn điên đảo điên. Can qua từ đây khởi, đừng mong năm thái bình”.

Sùng Trinh nhìn thấy bài thơ thì im lặng không nói gì.

Vào tối ngày 18 tháng 3 cùng năm, quân của Lý Tự Thành tiến vào kinh thành. Rạng sáng ngày 19 tháng 3, Hoàng đế Sùng Trinh treo cổ tự vẫn ở Môi Sơn (nay là Cảnh Sơn), kết thúc triều đại nhà Minh.

Tới đây đã ứng với những gì Lưu Bá Ôn nói rằng nhà Minh “vạn tử vạn tôn“. Nhà Minh của Chu Nguyên Chương truyền đến Chu Thường Lạc – con trai của Hoàng đế Vạn Lịch – ứng với “vạn tử”, rồi sau đó đến Hoàng đế Sùng Trinh – cháu trai của Hoàng đế Vạn Lịch – ứng với “vạn tôn” thì kết thúc.

Dù lịch sử có đánh giá thế nào chăng nữa thì đó cũng chỉ là đánh giá của con người. Sự phát triển của nhân loại, sự thịnh suy của xã hội, và sự thay đổi triều đại đều không dựa trên ý chí của con người.

Cho dù hậu thế có đánh giá thế nào về Hoàng đế Sùng Trinh thì sự sụp đổ của nhà Minh cũng là điều chắc chắn. Chẳng qua là Thượng Thiên đã chọn Sùng Trinh đóng vai vị vua mất nước, chứ không phải muốn Sùng Trinh tới cứu lấy số phận của nhà Minh.

Sự việc này đã xưa rất xưa, còn ai có thể nói cho rõ? Và rồi từ số phận lên xuống của các triều đại, ai có thể nhìn ra manh mối của vòng tuần hoàn sinh mệnh và từ đó rút ra những bài học tích cực?

Nguyệt Hòa
Theo NDTVN (Sound of hope)

Xem thêm
Chia sẻ bài viết: