Ly kỳ: cứu mỹ nữ trong hội xem hoa, gặp người xưa ở nơi Tiên cảnh
Nhắc đến những sự tích tâm linh huyền ảo thì ở Việt Nam ta vốn sẵn nhiều. Tuy nhiên thời gian trôi qua, vật đổi sao dời, lòng người phai nhạt, nên có những câu chuyện bị vùi lấp trong quá vãng; nhưng cũng có những câu chuyện trường tồn mãi cùng thời gian với bao tình tiết ly kỳ hấp dẫn, khiến hậu nhân nghe xong không khỏi cảm thán khôn nguôi!..
Sự tích Từ Thức gặp Tiên được trích từ tác phẩm: “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ dưới đây là một câu chuyện như thế, xin kính mời quý độc giả cùng theo dõi và chiêm nghiệm…
Cứu mỹ nữ trong hội xem hoa
Chuyện kể rằng, vào năm Quang Thái đời nhà Trần, có người ở Hóa Châu tên là Từ Thức, vì có cha làm quan đại thần triều đình nên anh ta cũng được bổ nhiệm một chức Tri huyện ở Tiên Du (Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh).
Lại nói, khi ấy bên cạnh huyện phủ có một tòa chùa danh tiếng, trong chùa trồng một cây mẫu đơn cổ, đến kỳ hoa nở thì người các nơi đến xem đông vui nhộn nhịp, sân chùa khi ấy trở thành một đám hội xem hoa tưng bừng lắm.
Tháng 2 năm Bính tý (niên hiệu Quang Thái thứ 9 – tức năm 1396, đời nhà Trần), người ta thấy có cô con gái, tuổi độ 16 xuân xanh, phấn son điểm phớt, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời, đến hội ấy xem hoa. Cô gái vin một cành hoa, không may cành giòn mà gãy khấc, bị người coi hoa bắt giữ lại, ngày đã sắp tối vẫn không ai đến nhận. Từ Thức cũng có mặt ở đám hội ấy, thấy vậy mới động lòng thương, nhân cởi tấm áo cừu lót bằng gấm trắng, đưa vào tăng phòng để chuộc lỗi cho người con gái ấy. Mọi người đều khen quan tri huyện là một người hiền-đức.
Song Từ Thức vốn tính hay rượu, thích đàn, ham thơ, mến cảnh, việc sổ sách công đường thường bỏ ùn cả lại, thường bị quan trên quở trách rằng:
— Thân phụ nhà thầy làm đến chức quan đại thần mà thầy không làm nổi một chức Tri huyện hay sao!
Từ than rằng:
— Ta không thể vì số lương 5 đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh. Âu là thong thả mái chèo khua, dạo chơi nước biếc non xanh, lẽ ấy vốn chẳng phụ gì ta vậy!
Bèn cởi trả ấn tín, bỏ quan mà về. Vốn yêu cảnh hang động ở huyện Tống Sơn (nay thuộc Hà Trung – Thanh Hóa), nhân làm nhà tại đó để ở. Từ Thức Thường sai một thằng nhỏ đem một bầu rượu, một cây đàn đi theo, mình thì mang mấy quyển thơ của Đào Uyên Minh (thi nhân kiệt xuất đời Tấn) hễ gặp chỗ nào thích ý thì hí hửng ngả rượu ra uống. Phàm những nơi nước tú non kỳ, không đâu không từng có thơ của họ Từ đề vịnh. Một hôm Từ dậy sớm, trông ra bể Thần Phù (Nay thuộc đất Ninh Bình) ở phía ngoài xa vài chục dặm, thấy có đám mây ngũ sắc, đùn đùn kết lại như một đóa hoa sen mọc lên, vội chèo thuyền ra thì thấy một trái núi rất đẹp. Từ kinh ngạc bảo lái thuyền rằng:
— Ta đã từng lênh đênh trên khắp giang hồ, các thắng cảnh không còn chỗ nào mà không đi đến. Nay không biết trái núi này từ đâu lại mọc ra trước mắt, vì trước kia vốn không từng có; hay là non Tiên rụng xuống, vết Thần hiện ra đấy chăng?
Bèn buộc thuyền lên bờ thì thấy những vách đá cao vút nghìn trượng, sừng sững đứng thẳng, nếu khống có cánh thì không ai có thể trèo lên thăm cảnh đó được. Nhân đề một bài thơ Đường luật rằng:
Triêu Dương bóng rải khắp ngày xanh,
Hoa cỏ cười tươi đón rước mình.
Hái thuốc nào đâu sư kẽ suối,
Tìm nguồn duy có khách bên ghềnh.
Lang thang đất lạ đàn ba khúc,
Nênh nổi thuyền câu rượu một bình.
Bến Võ chàng ngư, tìm thử hỏi,
Thôn Đào chỉ hộ lối loanh quanh.
Đề xong, trông ngắm thẫn thờ, như có ý chờ đợi. Chợt thấy ở trên vách đá bỗng nứt toác ra một cái hang, hình tròn mà rộng. Từ Thức vén áo đi vào, vừa được mấy bước thì cửa hang đã đóng sập lại, tối tăm mù mịt như sa vào cái vực đen sâu. Bụng nghĩ không còn thể nào sống được nữa, chàng lấy tay sờ soạng lối rêu, nhận thấy có một cái khe nhỏ, ngoằn ngoèo như ruột dê vậy.
Gặp người xưa ở nơi Tiên cảnh
Đi mò độ hơn một dặm thì thấy có đường ngoi lên. Lại bám víu trèo lên thì mỗi bước mỗi thấy rộng rãi. Lên đến ngọn núi thì bầu trời sáng sủa, chung quanh toàn là những lâu đài nguy nga, mây xanh ráng đỏ bám ở lan can, cỏ lạ hoa kỳ nở đầy trước cửa. Từ Thức nghĩ nếu đây không phải là chỗ đền đài thờ phụng, thì tất là cái xóm của những bậc lánh đời. Rồi chợt thấy có hai người con gái áo xanh bảo nhau rằng:
— Lang quân nhà ta đã đến!
Đoạn họ vội chạy vào báo tin, một lúc đi ra nói rằng:
— Phu nhân chúng tôi sai mời chàng vào chơi.
Từ Thức đi theo họ vào, vòng quanh một bức tường gấm, vào trong một khung cửa son, thấy những tòa cung điện bằng bạc đứng sừng sững, có những tấm biển đề: “Điện Quỳnh Hư”, “Gác Dao Quang”. Trên gác có Bà Tiên áo trắng, ngồi trên một cái giường thất bảo; bên cạnh đặt một chiếc giường nhỏ bằng gỗ đàn hương, Bà Tiên mời sinh lên ngồi và bảo rằng:
— Tính hiếu kỳ của chàng đã thành chứng nghiện. Sự vui sướng trong một chuyến đi chơi này, kể cũng đã thỏa nguyện bình sinh. Nhưng mối duyên gặp gỡ, chàng có còn nhớ gì không?
Sinh thưa rằng:
— Tôi là một kẻ dật sĩ ở Tống Sơn. Một cánh buồm gió, một lá thuyền nan, phiêu lãng giang hồ, thích đâu đến đấy. Nào có biết chốn này lại có động Tiên! Song lòng trần mờ tối, chưa biết sự thể ra làm sao. Dám xin chỉ bảo rõ ràng cho Thức tôi được hiểu.
Bà Tiên cười mà rằng:
— Chàng biết sao được. Đây là núi Phù Lai, một động tiên thứ sáu trong 36 động, bồng bềnh ở ngoài biển cả, dưới không có bám víu, như hai núi La Phù tan hợp theo với gió mưa, như các ngọn Bồng Lai, co duỗi theo với sóng gợn, mà tôi tức là Địa tiên ở Nam Nhạc. Vì thấy chàng là người cao nghĩa sẵn lòng cứu giúp sự nguy khốn cho người, nên mới dám làm phiền mời chàng đến đây.
Bà Tiên nhân đó đưa mắt cho tỳ nữ để bảo gọi một cô Tiên khác ra, Từ Thức liếc nhìn trộm thì nhận thấy chính là người bẻ gãy cành hoa ngày trước. Bà tiên trỏ bảo rằng:
— Đứa con tôi đây tên là Giáng Hương, ngày trước gặp phải cái nạn trong khi đi xem hoa, nhờ chàng cứu gỡ, ơn ấy không quên, nay muốn cho nó kết duyên để báo đền ơn trước.
Bèn ngay đêm ấy đốt đèn mỡ phượng, rải đệm vằn rồng, để hai người làm lễ giao bái. Ngày hôm sau quần Tiên đến mừng, có người mặc áo gấm cưỡi con ly từ phương bắc xuống, có người vận xiêm lụa cưỡi rồng từ phía nam lên, có người đi kiệu ngọc, có người cưỡi xe gió, đồng thời tụ họp. Tiệc yến đặt ở tầng thượng trên gác Dao Quang, buông rèm châu ngọc, rủ trướng móc vàng, phía trước đặt một cái ghế bành bằng ngọc lưu ly mà để không. Quần Tiên vái chào nhau cùng ngồi ở những ghế bên tả; Từ Thức thì ngồi ở cái giường bên hữu. Ngồi xong, có tiếng truyền hô là Kim Tiên đã đến, mọi người đều bước xuống lạy đón chào. Đoạn rồi lên gác tấu nhạc. Tiệc bày mâm bằng mã não, đĩa bằng ngọc thạch, các món ăn đều rất kỳ lạ; lại có những thứ rượu kim tương ngọc lễ, mùi hương đưa lên thơm nức, dưới trần không bao giờ có được các thức quý như vậy. Người áo gấm trắng nói:
— Chúng tôi chơi ở chốn này mới 8 vạn năm, mà bể Nam đã ba lần tung bụi. Nay chàng từ xa tới đây, không vì Tiên phàm mà cách trở, ba sinh hương lửa, tưởng cũng không phụ, đừng nên cho chuyện Thần tiên là câu chuyện hoang đường.
Mọi người cùng dự tiệc rất vui vẻ. Rồi đó mặt trời gác núi, các khách khứa đều ra về cả.
Thời gian thấm thoát trôi qua từ khi Từ Thức bỏ nhà đi, thấm thoát đã được một năm, ao sen đã đổi thay màu biếc. Những đêm sương sa gió thổi, trông thấy trăng dòm cửa sổ, sóng tóe đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng, quấy nhiễu khiến chàng không sao ngủ được. Một hôm trông ra bể, thấy một chiếc tàu buôn đi về phương nam, Từ trỏ bảo Giáng Hương rằng:
— Nhà tôi đi về phía kia kìa, song biển cả trời xa, chẳng biết là ở tận đâu.
Rồi nhân lúc rỗi, chàng nói với nàng rằng:
— Tôi bước khách bơ vơ, lòng quê bịn rịn, lệ hoa thánh thót, lòng cỏ héo hon, dám xin thể tình mà cho được tạm về thăm chốn cũ, chẳng hay ý nàng nghĩ thế nào?
Giáng Hương bùi ngùi không nỡ dứt. Từ Thức nói:
— Tôi xin hẹn trong một thời kỳ bao nhiêu lâu, để về cho bạn bè gặp mặt và thu xếp việc nhà cho yên, xong sẽ lại đến đây để chung sống với nàng, nguyện cùng già ở chỗ làng mây bến nước.
Giáng Hương khóc mà nói:
— Thiếp chẳng dám vì tình phu phụ mà ngăn cản mối lòng nhớ quê hương của chàng. Song cõi trần nhỏ hẹp, kiếp trần ngắn ngủi, dù nay chàng về nhưng chỉ e liễu sân hoa vườn, không còn đâu cảnh tượng như ngày trước nữa.
Nàng nhân thưa với phu nhân, phu nhân nói:
— Không ngờ chàng lại vướng mắc vì mối lòng trần như vậy.
Nhân đó cho một cỗ xe cẩm vân để chàng cưỡi về. Nàng cũng đưa cho chàng một bức thư viết vào lụa mà nói:
— Ngày khác trông thấy vật này, xin đừng quên mối tình xưa cũ.
Nói đoạn tràn nước mắt mà ly biệt.
Từ Thức cưỡi trên xe mây, chỉ thoắt chốc đã về đến nhà, thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân dân, hết thảy đều không như trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc màu xanh thủa nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có người nói:
– Thủa bé tôi nghe nói ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như ông, đi vào núi mất, đến nay đã hơn 60 năm, nay đã là năm thứ 5 (1458) niên hiệu Diên Ninh là đời ông vua thứ ba của triều Lê rồi.
Chàng bấy giờ mới tiếc nuối bùi ngùi; muốn lại lên xe mây để quay về động Tiên, nhưng xe mây đã hóa thành một con chim loan mà bay đi mất. Mở thư ra đọc, thấy có câu: “Kết lứa phượng ở trong mây, duyên xưa đã hết. Tìm non Tiên ở trên biển, dịp khác còn đâu!” Từ Thức khi ấy mới biết là Giáng Hương đã nói trước với mình những lời ly biệt. Chàng bèn mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn, vào núi Hoành Sơn, rồi sau không biết đi đâu mất.
Đường Phong biên tập và tổng hợp.
– Nguồn tài liệu tham khảo, theo: “Truyền kỳ mạn lục” – Nguyễn Dữ.