Một niệm thiện – ác sinh, cả đất trời đều biết
Thiện niệm như ánh mặt trời chiếu sáng bản thân, lan toả đến vạn vật xung quanh; ác niệm không khác gì mây âm ảm đạm che phủ trái tim tự mình, chiếu bóng đen lên người khác…
“Tâm bất động, mặt hồ tĩnh lặng
Tâm khởi rồi biển sóng trào dâng”…
Người xưa trọng đạo đức, luôn cố gắng tìm ra các phương pháp áp chế và loại bỏ những tư tưởng và hành động xấu… về phương diện luân lý này tiền nhân đã lưu lại những tích truyện hết sức chân thực và đầy ý nghĩa, như câu chuyện dưới đây.
Hạt đậu trắng lưu giữ thiện niệm, hạt đậu đen lưu giữ ác niệm
Chuyện kể rằng vào thời nhà Tống có một người nọ tên là Triệu Khang Tĩnh, trong nhà ông có một chiếc bình đựng các loại đậu đen và đậu trắng. Mỗi khi tâm ông sản sinh ra niệm thiện, ông liền cho một hạt đậu trắng vào bình; ngược lại mỗi khi sinh ác niệm, ông liền cho một hạt đậu đen vào bình.
Khi mới thực hiện được vài hôm, Triệu Khang Tĩnh phát hiện ra số lượng hạt đậu đen ở trong bình vô cùng nhiều. Điều đó khiến ông kinh ngạc, Triệu Khang Tĩnh không ngừng nỗ lực điều chỉnh lại tư tưởng của mình, dần dần hạt đậu đen bị bỏ vào bình càng ngày càng ít. Cuối cùng khi tâm tính ông đã hoàn toàn thanh tịnh, ngay cả đến hai niệm thiện ác cũng không còn tồn tại, chiếc bình và hai hạt đậu từ đó cũng không cần dùng đến nữa.
Cổ nhân nói: “Hành thiện như cỏ mùa xuân, mọc xanh tươi tốt, ngày ngày sinh trưởng. Hành ác giống như tảng đá bị bào mòn, không thấy được vết đau của nó ở đâu, ngày ngày chịu khổ… Phúc hay hoạ của một người sẽ thuận theo tâm mà thay đổi, cứ lặng lẽ mà biến hoá, người nào không tin thì ắt sẽ không hiểu được đạo lý này, từ đó khó có thể ức chế được tâm mình”.
Một niệm mở ra cánh cửa họa hoặc phúc
Tống Triều có một người tên là Vệ Trọng Đạt làm quan tại Viện Hàn Lâm. Một đêm trong giấc chiêm bao, ông nằm mơ bị âm sai đưa đến địa phủ, sau đó quan viên địa phủ tiến hành tra xét ghi chép các việc thiện và ác mà ông đã làm. Kết quả là mọi người đều kinh ngạc khi phát hiện rằng tư liệu ghi chép lại tội ác của ông ta nhiều vô kể, đến nỗi có thể ‘lấp đầy sân’, nhưng việc thiện lại chỉ vỏn vẹn có một chút xíu.
Quan âm phủ lập tức mặt biến sắc, liền dùng cân để đong đo lượng việc thiện và ác. Không ngờ cán cân nghiêng về bên thiện, trọng lượng của một chút việc thiện kia lại trấn áp được cả núi việc ác của Vệ Trọng Đạt đã bị ghi lại trong sổ sách.
Quan âm phủ vui vẻ nói: “Ông có thể ra ngoài rồi”.
Vệ Trọng Đạt hỏi: “Tôi vẫn chưa đến 40 tuổi, tại sao lại có nhiều chuyện ác như vậy?”
Quan âm phủ nói: “Chỉ cần một niệm bất chính, quỷ thần liền biết, liền lập tức ghi lại”.
Vệ Trọng Đạt lại tiếp: “Vậy việc thiện nhỏ kia được ghi chép lại là chuyện gì vậy?”
Quan âm phủ trả lời: “Triều đình muốn xây dựng nhiều công trình thổ mộc, xây sửa cầu đá Tam Sơn. Ông đã dâng tấu khuyên can Hoàng đế không nên tu sửa, tránh khiến cho dân chúng cực khổ, lãng phí tiền bạc của cải. Việc thiện nhỏ kia chính là tấu chương đó của ông”.
Vệ Trọng Đạt trầm ngâm: “Nhưng triều đình đã không thu nạp lời khuyên can của tôi, vẫn tiến hành tu sửa. Bản tấu chương này lại có thiện lực to lớn như vậy sao?”
Quan âm phủ giải thích: “Là vì ông đã động được chân niệm. Giả như triều đình nghe lời ông, thì công đức của ông sẽ thật là vô lượng. Để có được cái tâm như ông dám khuyên can hoàng đế bất kể hậu quả, thực là không dễ. Tuy nhiên ác niệm của ông vẫn quá nhiều, khiến cho lượng thiện giảm đi một nửa, vậy nên ông không thể thăng chức làm tể tướng”.
Về sau, Vệ Trọng Đạt quả nhiên chỉ làm đến Lại bộ Thượng thư.
Quả đúng là “trên đầu ba thước có Thần linh”, chỉ cần xuất niệm ác cũng đồng như là thực hiện rồi, trời cao sẽ ghi lại hết thảy. Vệ Trọng Đạt may sao làm được việc thiện to lớn mà lấy công chuộc tội, nếu không – không chỉ là chức tể tướng, ngay cả đến phẩm hàm làm quan của ông có lẽ cũng khó giữ.
Tu sửa ý niệm thanh tịnh, cải biến cả kiếp nhân sinh
Trong những năm Gia Tĩnh triều đại nhà Minh, ở Giang Tây có một người họ Du tên Đô, tự là Lương Quân. Du Đô khi còn học tại trường tư thục đã cùng với mười người bạn của ông thành lập nên “Văn Xương xã đoàn”. Phát thệ phóng sinh, không sát sinh, nghiêm cấm ngoại tình, không tạo khẩu nghiệp và đã cố gắng thực hiện trong nhiều năm.
Kết quả không ngờ được rằng, Du Đô bảy lần thi hương đều trượt; vợ ông sinh ra năm trai bốn gái, nhưng bốn người con trai chết yểu, người còn lại bị thất lạc năm tám tuổi. Bốn người con gái thì chết mất ba người, chỉ còn lại duy nhất một cô. Vợ ông vì lẽ đó mà khóc đến nỗi mù cả hai mắt.
Du Đô quanh năm khốn đốn, cuộc sống càng ngày càng đau khổ. Ông phản tỉnh bản thân nghĩ: “Bình thường ta sống cũng không đến nỗi nào, tại sao lại bị Trời phạt ra nông nỗi này?”.
Vào đúng đêm ba mươi Tết, khi này Du Đô đã 47 tuổi, có một ông lão họ Trương ghé thăm nhà Du Đô. Trong lúc hai người nói chuyện với nhau, Du Đô kể về những biến cố xảy ra trong cuộc sống của bản thân, hơn nữa còn đưa cho ông lão xem một bức thư trước đây Du Đô viết cho ông Táo.
Lão Trương nói: “Việc của gia đình ông tôi thảy đã biết từ lâu. Ác niệm trong tư tưởng ông rất nặng, luôn mong cầu hư danh, nội dung bức thư tràn ngập lời lẽ oán thán, không ngờ đã trở thành phỉ báng Ngọc Đế rồi, e là ngày tháng về sau ông sẽ phải chịu sự trừng phạt còn hơn cả hiện tại”.
Du Đô nghe xong thì vô cùng kinh ngạc. Ông Trương tiếp tục phân tích: “Tuy ông không phạm phải việc ngoại tình, nhưng hễ thấy người con gái dung mạo xinh đẹp thì tâm thần đảo loạn, vọng niệm nổi lên, ác ý tuôn trào, ấy vậy mà bản thân còn không nhận ra”.
Ông Trương kể cho Du Đô các loại niệm đầu thiện và ác của ông ta, hy vọng Du Đô về sau có thể bỏ được tư tưởng tham lam, sắc dục, đố kị… Ông Trương còn khuyên rằng, đối với việc thiện không quản lớn nhỏ, không quản khó hay dễ, cần nỗ lực mà làm, kiên trì đến cùng, ắt sẽ có thành tựu.
Từ đó về sau, Du Đô nỗ lực cải biến tư tưởng và hành vi của bản thân, bất kể phải chịu nhiều khó khăn vất vả đến đâu… Ông năng làm việc thiện, lấy hiệu là Tịnh Ý Đạo nhân, lập chí trừ bỏ các loại tạp niệm, dục vọng. Cứ như vậy ba năm sau, đến năm Vạn Lịch triều Minh, Du Đô lên kinh ứng cử, thi đỗ tiến sĩ, hơn nữa còn có cơ duyên may mắn tìm lại được người con trai năm đó thất lạc, thị lực của người vợ bị mù cũng dần hồi phục.
“Nhân tâm khởi thiện niệm, Thiên địa tận giai tri”, nhờ không ngừng thay đổi tâm tính, chuyên tâm hướng thiện mà toàn bộ cuộc đời của Du Đô về sau đã thay đổi, đó cũng là một câu chuyện đáng để cho người sau học hỏi.
Nguồn: NTDVN