Người xưa có câu: “Thất bất xuất môn, bát bất quy gia” có nghĩa là gì?

nguoi-xua-noi-that-bat-xuat-mon-bat-bat-quy-gia-y-nghia-chan-chinh-dang-sau-cau-noi-la-gi

Người xưa có câu: Thất bất xuất môn, bát bất quy gia. Nhiều người hiểu câu này là mùng bảy không ra khỏi nhà, mùng tám không quay về nhà. Có người còn tính cả ngày 17, 18, 27, 28 âm lịch.

Thực ra, ý nghĩa chân chính của câu Thất bất xuất môn, bát bất quy gia không phải là một điều cấm kỵ trong dân gian mà đằng sau nó ẩn chứa trí tuệ vĩ đại ngàn năm.

Thất bất xuất môn

Cái gọi là “Thất bất xuất môn” không có nghĩa là ngày thứ bảy không thể ra ngoài, mà là ám chỉ bảy điều “củi, gạo, dầu, muối, tương, giấm, trà”. Bảy điều này cần thiết cho cuộc sống hàng ngày nên còn được gọi là “khai môn thất kiện sự” nghĩa là 7 điều chúng ta thường nói đến trước khi ra khỏi cửa.

Ngô Tự Mục thời nhà Tống đã nói trong “Mộng Lương Lục” rằng: “Người ta mỗi ngày không thể thiếu củi, gạo, dầu, muối, tương, dấm, trà”. Vào thời nhà Nguyên, các quan chức Vũ Hán cũng đã viết trong “Ngọc Hồ Xuân” như sau: “Buổi sáng thức dậy bảy việc củi, gạo, dầu, muối, tương, giấm, trà”. Đường Bá Hổ đời nhà Minh cũng có bài thơ “Trừ Tịch Khẩu Chiêm”: “Si mễ du diêm tương thố trà, ban ban đô tại biệt nhân gia, tuế mộ sảnh đạm mô nhất sự, trúc đàng tự lý khán mai hoa”; tạm diễn nghĩa: “Củi, gạo, dầu, muối, tương, dấm, trà, bình thường đều ở nhà người khác; Tuổi xế thanh đạm không có chuyện gì, trong trúc đường tự ngắm hoa mai”.

Để có cuộc sống bình an và hút nhiều tài lộc, hãy tham khảo các vật phẩm phong thủy thủ công của Hòn Ngọc nhé!

“Củi, gạo, dầu, muối, tương, giấm, trà” đại diện cho văn hóa ẩm thực cổ xưa, cũng là để nhắc nhở mọi người rằng, trước khi đi ra ngoài làm việc, thì đầu tiên nên xử lý tốt công việc trong nhà.

Người xưa có câu: “Tu thân, Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”; chỉ có tu thân Tề gia trước, mới có thể trị quốc bình thiên hạ.

Bát bất quy gia

Cũng giống như “Thất bất xuất môn”, “Bát” trong “Bát bất quy gia” cũng không nói đến ngày mùng tám, mà nói đến tám điều “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”. Đó là tám nguyên tắc đạo đức cơ bản của người xưa. Hiện nay người ta cũng thường dùng các từ “hiếu đễ, trung tín, lễ nghĩa, liêm sỉ”, xuất phát từ “Luận ngữ học nhi”: “Kỳ vi nhân dã hiếu đễ, nhi hiếu phạm thượng giả, tiển hĩ; bất hiếu phạm thượng, nhi hiếu tác loạn giả, vị chi hữu dã. Quân tử vụ bản, bản lập nhi đạo sinh. Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bản dữ”; nghĩa là: “Người biết hiếu thuận với cha mẹ, kính trọng người lớn tuổi thì việc mạo phạm cấp trên là hiếm có; Người không thích mạo phạm cấp trên mà lại thích làm loạn là không có. Quân tử chuyên tâm lo cái gốc tu thân thì đạo lập thân tự nhiên phát sinh. Hiếu và đễ là cái gốc của đạo Nhân”.

“Hiếu” có nghĩa là hiếu thảo với cha mẹ. Đây là bổn phận của một người con. Đó là sự kế thừa từ đời này sang đời khác. Nhưng chúng ta cũng thường nói rằng bạn bè như anh chị em; vì vậy chúng ta thường giải thích “huynh đệ” theo cách mở rộng, đó là yêu thương anh chị em, và đối xử với bạn bè bằng sự khiêm tốn và lịch sự như đối xử với anh chị em của mình.

Nói chung, hiếu là là đối nội; trung, tín, lễ, nghĩa là đối ngoại.

“Trung” có nghĩa là trung thành, và “tín” có nghĩa là đáng tin cậy. “Ngôn tất trung tín, hành tất đốc kính”, lời nói phải trung tín, làm việc phải cẩn trọng. Ðối với bạn bè phải có tín nhiệm, hứa với bạn chuyện gì thì phải làm chuyện đó, không thể thất tín, làm việc gì cũng phải cẩn trọng.

“Lễ” chỉ lễ nghĩa. Lễ không chỉ ám chỉ lễ phép mà còn ám chỉ việc tuân theo các quy tắc lễ nghi khi làm việc. Ví dụ như thời cổ đại, con nhìn thấy cha phải hành lễ, quan đại thần nhìn thấy vua phải hành lễ, cấp bậc khác nhau, lễ nghi khác nhau. Ngày nay, phép xã giao đề cập nhiều hơn đến việc tuân thủ luật pháp, không chỉ có ý thức đạo đức mà còn có ý thức về các quy tắc.

“Nghĩa” có nghĩa là nghĩa khí, do chịu ảnh hưởng của phim truyền hình, nhiều người hiểu nghĩa khí là “nghĩa khí giang hồ”; thậm chí vì thế mà không ngại vi phạm pháp luật, nhưng kỳ thật ý nghĩa ban đầu của Khổng Tử là từ nội tâm phải có ý thức chính nghĩa, trong phạm vi khả năng của mình, nguyện ý giúp đỡ người khác.

“Liêm” chỉ sự liêm khiết, trong sạch, nhỏ như dân thường ngoài chợ không làm chuyện lén lút, lớn như quan viên không tham ô, tham nhũng. “Liêm” đại diện cho công bằng và chính trực, có ý nghĩa áp dụng rộng rãi.

“Sỉ” là chỉ “xấu hổ”. Sự xấu hổ ở đây nhấn mạnh nhiều hơn vào sự cân bằng nội tâm, biết điều gì là không hợp lý và trái với lương tâm. Không chỉ “biết xấu hổ không làm” cũng phải “biết xấu hổ để thay đổi”. Cái gọi là “tri sỉ cận hô dũng” tức là người biết xấu hổ thì cũng được xem là người gan dạ, dũng cảm là như vậy. Chỉ có trong tâm biết phân biệt đúng sau, mới có thể làm điều đúng đắn.

Từ đó có thể thấy, “thất bất xuất môn” là chỉ về việc làm tốt việc hậu phương; và “bát bất quy gia” là chỉ về người làm việc ở bên ngoài, nếu vi phạm bất kỳ điều nào trong “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ”, thật sự là đại nghịch bất đạo, hổ thẹn với tổ tông, càng không có mặt mũi đối mặt với người nhà.

Văn hóa truyền thống của nhân loại rất rộng lớn và sâu sắc, mỗi câu nói xưa được lưu truyền đều có ý nghĩa sâu sắc của nó. Vậy nên, không nên dán nhãn mê tín, phong kiến dị đoan mà bác bỏ; càng không thể coi thường, quên đi lời giáo huấn của tổ tiên.

Bảo Châu biên dịch

Nguồn Secretchina

Đã xong

Xem thêm
Chia sẻ bài viết: