Vào thời nhà Đường thịnh vượng, tư tưởng Phật gia được truyền bá rộng rãi chưa từng có, Kinh Phật được phiên dịch và lưu truyền với số lượng cực lớn, rất nhiều người tín phụng Phật Pháp, tin vào nhân quả mà tu tâm hướng thiện, xã hội an định, dân tình thuần phác. Giống như trong Kinh Phật có nói: “Phật đi đến đâu thì mọi người trong các quốc gia, thôn ấp, phường xóm, tụ lạc, ai cũng được Ngài giáo hóa.
Thiên hạ hòa thuận, mặt trời, mặt trăng sáng tỏ, mưa gió đúng thời, tai ương, tật dịch chẳng khởi, nước giàu, dân yên, vũ khí [trở thành] vô dụng. Đức được tôn sùng, lòng nhân mạnh mẽ, chăm tu lễ nghĩa, nhân nhượng. Nước không trộm cướp, chẳng có oan uổng, mạnh chẳng hiếp yếu, ai nấy đều được yên vui”. Phật Pháp thời Đường được quảng truyền cũng là nhờ sự giúp đỡ của Thái Tông.
Cuối thời Tùy chiến tranh loạn lạc, Phật gia tu luyện cũng chịu ảnh hưởng rất lớn, “các chùa mai một, không thể nhìn thấy”, “chùa, tăng, đền thờ, cũng theo đó mà thành tro tàn; các tăng phân tán, lưu lạc khắp nơi”. Thái Tông có thái độ nâng đỡ đối với tu luyện của Phật gia, “Độ tăng lập chùa, tổ chức những hoạt động lớn”, hơn nữa còn tỏ ra rất coi trọng việc tu luyện của tăng nhân, đối với những tăng ni bại hoại đạo đức, không phù hợp với Phật Pháp, quyết không dung tha, nhất định phải làm cho cửa Phật thanh tịnh.
Thái Tông ra sắc lệnh khai thị xá lợi Phật, viết chiếu thư mời Đỗ Thuận – sơ tổ Hoa Nghiêm Tông của Phật gia vào cung, ban cho “Đế Tâm”, hạ lệnh an bài các việc như phiên dịch Kinh Phật, đều là để khải ngộ nhân tâm và đặt định nền móng cho Phật Pháp lưu truyền mãi về sau.
Phật giáo Trung thổ bắt nguồn từ Tây Vực Thiên Trúc (Ấn Độ). Hán Minh Đế từng nằm mộng thấy tượng đồng bay qua điện đình, sau đó phái Lang trung Thái m và Tần Cảnh đến Thiên Trúc cầu pháp, mang về Kinh Phật 42 chương và lập tượng Thích Ca. Pháp môn tu luyện của Phật gia từ đó được truyền bá ở Trung thổ. Thời kỳ Tam Quốc, nhân dân trong nước bắt đầu tuân theo giới luật nhà Phật, cạo đầu làm tăng. Từ thời Tam Quốc đến thời Tấn, đều có người đi đến Tây Vực Thiên Trúc cầu pháp và mang Kinh Phật về, tu luyện Phật gia dần dần hưng thịnh.
Sau đó, trải qua các triều đại, nhiều lần gặp khó khăn, có đế vương sùng bái tu luyện Phật gia, có đế vương lấy lý do là các tăng lữ làm trái phép nhà Phật mà tàn sát tăng nhân, đốt phá tượng Phật. Lúc Cao Tổ tại vị từng hạ chỉ, kinh thành chỉ lưu lại 3 chùa 1 quán, các châu khác chỉ giữ lại một chùa. Sau khi Thái Tông lên ngôi, đại xá thiên hạ, đình chỉ chiếu chỉ đào thải tăng đạo của Cao Tổ.
Ngay từ năm Vũ Đức thứ 3 (năm 620), lúc Thái Tông bình định Vương Thế Sung, thượng tọa Thiện Hộ chùa Thiếu Lâm, chủ chùa Chí Thao, Đô Duy Na Huệ, tăng nhân trong chùa là Đàm Tông, Phổ Huệ, Minh Tung, Linh Hiến, Phổ Thắng, Trí Thủ, Đạo Quảng, Trí Hưng, Tăng Mãn, Tăng Phong… 13 vị tăng nhân, dưới sự phối hợp của Triệu Hiếu Tể trong thành Viên Châu gần Lạc Dương, trong ứng ngoài hợp, cướp lấy Châu thành, bắt Vương Nhân Tắc – cháu của thủ tướng Vương Thế Sung, quy thuận Thái Tông. Thái Tông phái Vương Quân Khuếch chiếm lĩnh cứ điểm quân sự của Châu thành.
Sau đó, Thái Tông phái Lý An Viễn mang lời dạy của Tần Vương “Cáo bách cốc ổ thiếu lâm tự thượng tọa thư” đến Thiếu lâm tự an ủi. Về sau Thái Tông hạ lệnh đem một ngàn tấm lụa và ruộng đất 40 khoảnh, cối nghiền giã bằng sức nước một cái, ban cho Thiếu lâm tự; thiết lập 500 tăng binh và doanh trại tư nhân, từ đó Thiếu lâm tự phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Năm sau, sau khi Thái Tông bắt được Đậu Kiến Đức tại Huỳnh Dương, ban đêm trong ánh trăng mờ đã nhìn thấy “mây trắng ở hướng Đông Nam, ánh sáng chói lọi phát ra trên trời”, “Quan m Bồ Tát hiện ra thân vàng”, vì vậy mà nói với các tướng sĩ: “Chính là việc quân sự hoàn thành, Trời cho Thần phù hộ”. Ông đã bẩm báo với Cao Tổ, Đường Cao Tổ đồng ý hạ lệnh cho xây Quan m tự tại núi Quảng Vũ, Huỳnh Dương.
Vào năm đầu tiên sau khi Thái Tông lên ngôi, ông đã truyền chỉ cho các cao tăng đến nội điện hành đạo 7 ngày, vì nước cầu an, làm siêu độ cho các tướng sĩ tử trận và dân chúng vô tội tử vong nhiều năm qua. Thái Tông nhớ đến những người bị giết hại khi ông bình định thiên hạ, vì vậy đã lấy ngự phục (quần áo sử dụng bởi hoàng đế) bố thí cho các chùa. Tháng 12 năm Trinh Quán thứ 3, Thái Tông lại ban hành “Hành trận sở lập thất tự chiếu”, xây dựng chùa ở những nơi đã hành quân tác chiến. Năm Trinh Quán thứ 3, Thái Tông đã cho xây dựng lại nơi ở cũ của mình thành chùa Hưng Thánh.
Năm Trinh Quán thứ 5, Thái Tông vì Mục Thái hậu mà xây chùa Từ Đức ở trong cung Khánh Thiện, tại Chiêu Lăng xây chùa Dao Đài. Năm Trinh Quán thứ 6, lại có chiếu chỉ sửa nơi ở cũ ở Thái Nguyên thành chùa Thiên Cung. Năm Trinh Quán thứ 8, lại vì tưởng nhớ Mục Thái hậu mà xây chùa Hoằng Phúc ở trong thành Chân An. Năm Trinh Quán thứ 20, Thái Tông hồi kinh, cũng lại vì quân dân tử vong mà mời tăng nhân đến làm lễ siêu độ, xây dựng chùa Trung Diêm ở U Châu.
Thái Tông ủng hộ tu luyện Phật gia, nhưng ông rất minh xác rằng cái gốc của các tăng nhân là ở chỗ tuân theo lời dạy của Phật Đà, chứ không cho phép những người làm trái với Phật Pháp, gây rối loạn Phật môn. Ông trong năm Trinh Quán đầu tiên đã từng hạ chiếu độ tăng 3000 người. Thái Tông muốn thiên hạ có chùa ở khắp nơi, lệnh cho quan địa phương độ người xuất gia làm tăng ni, tổng số lấy 3000 làm hạn định…
Vào năm Trinh Quán thứ 3, Thái Tông hạ lệnh khôi phục lại việc dịch thuật ở chùa Đại Hưng Thiện, lệnh cho hòa thượng Ấn Độ Ba Pha chủ trì việc dịch kinh; các sa môn triều Đường như Tuệ Thừa, Tuệ Trách, Tuệ Tịnh, Pháp Lâm… 19 người trợ giúp dịch thuật; cũng lệnh cho đại thần Phòng Huyền Linh, Đỗ Chính Luân, Tiêu Cảnh… giám sát và hiệu đính.
Thái Tông trong năm Trinh Quán thứ 5 (năm 631) ban “Sắc lệnh khai kỳ Phật xá lợi”. Đây là lần đầu tiên hoàng đế Đại Đường đem xá lợi Phật được cất giấu trong chùa Pháp Môn cho mọi người xem.
Năm Trinh Quán thứ 6 (năm 632), Thái Tông ban chiếu mời sơ tổ Đỗ Thuận thuộc phái Hoa Nghiêm Tông của Phật gia vào cung, ban hiệu “Đế Tâm”, cho nên cung đình trên dưới lễ kính Đỗ Thuận cứ như là Phật. Đỗ Thuận được người đời sau tôn xưng là Đế Tâm Tôn Giả.
Vào năm Trinh Quán thứ 15 (năm 641), công chúa Văn Thành vào Tây Tạng, mang theo Kinh Phật và tượng Phật, khiến Phật gia không chỉ quảng truyền ở Hoa Hạ, mà còn được hoằng dương ở Tây Tạng.
Tiểu Phàm biên dịch
Theo Epochtimes