“Những cô hàng xén răng đen, nụ cười như mùa thu tỏa nắng” – Răng đen “hot trend” của thời xưa!

untitled-1-23-1

Theo quan niệm thẩm mỹ xưa, hàm răng đen được coi là chuẩn mực của cái đẹp, không chỉ riêng đối với phụ nữ mà ngay cả nam giới cũng vậy.

Người xưa tôn vinh răng đen là nét đẹp không thể thiếu của người phụ nữ. Nó được đánh giá, coi trọng cũng tương đương với quan niệm giữ gìn sự trong trắng của người con gái hay trang nghiêm, tú lệ của người phụ nữ.

Vẻ đẹp của hàm răng đen đã được đưa vào ca dao, thi ca không biết tự khi nào và là nét đáng yêu được xếp vào hàng thứ tư trong cái duyên của người con gái.

screenshot 2022 10 07 120355

Để có cuộc sống bình an và hút nhiều tài lộc, hãy tham khảo các vật phẩm phong thủy thủ công của Hòn Ngọc nhé!

Ta còn bắt gặp nụ cười của cô gái Kinh Bắc trong bài thơ bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm:

“Những cô hàng xén răng đen. Cười như mùa thu tỏa nắng”

Không chỉ là chuẩn mực của cái đẹp, lúc bấy giờ tục nhuộm răng đen trở nên phổ biến đến nỗi được coi là chuẩn mực đạo đức. Nếu như một người mà không nhuộm răng đen thì sẽ bị xem là đi ngược với tập tục, không phải là người tử tế và không được đón nhận. Họ sẽ không được đến đám cưới hỏi.

Đặc biệt vào các dịp lễ, Tết hay những ngày vui trọng đại như lễ hỏi, lễ cưới, người ta phải nhuộm răng lại cho đen mới, để tham dự.

Một nét đẹp truyền thống có từ cổ xưa

 

Tục nhuộm răng đen có từ lâu, trở thành một trào lưu và là tiêu chuẩn để đánh giá cái đẹp - Ảnh: InternetTục nhuộm răng đen có từ lâu, trở thành một trào lưu và là tiêu chuẩn để đánh giá cái đẹp - Ảnh: Internet
Tục nhuộm răng đen có từ lâu, trở thành một trào lưu và là tiêu chuẩn để đánh giá cái đẹp – Ảnh: Internet

Tục nhuộm răng của người Việt đã có từ rất lâu đời. Tính đến nayvẫn chưa có câu trả lời chính xác rằng nó có từ khi nào. Nhưng theo quan niệm trong dân gian hay trong một số  tư liệu lịch sử và qua nghiên cứu của Giáo sư Sử học Lê Văn Lan cho rằng tục nhuộm răng đen của nước ta đã có từ thời các vua Hùng. Nó dã tồn tại suốt mấy ngàn năm trong lịch sử văn hóa của người Việt Nam.

Đây vốn là phong tục cổ truyền không chỉ của người Kinh mà còn tồn tại ở cộng đồng các dân tộc như Thái, Mường, Dao, Tày, Nùng, Lự, Si La,…nhưng mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có cách nhuộm răng khác nhau, ý nghĩa, thẩm mĩ, sức khỏe và chất liệu sử dụng trong lúc nhuộm vừa có nét tương đồng vừa có đặc sắc riêng.

Trong cộng đồng người Việt, tục nhuộm răng đen chủ yếu chỉ phổ biến ở khu vực miền Bắc và miền Trung, còn ở miền Nam không thấy dấu vết của phong tục này.

Kinh đô Huế được coi là nơi cực thịnh của nghệ thuật nhuộm răng. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XX, ở các thành thị lớn của Việt Nam, tục ăn trầu và nhuộm răng suy yếu, dần dần theo thời gian phong tục gần như cũng biến mất.

Không chỉ có ở Việt Nam, nhuộm răng còn là một trong những phong tục xưa của nền văn hóa Đông Nam Á và châu Đại dương, đặc biệt là ở các dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Đảo, ngữ hệ Nam Á và ngữ hệ Kra-Dai. Tập tục này cũng xuất hiện ở Nhật Bản trước thời Minh Trị, cũng như ở Ấn Độ. Ngoài ra, tục nhuộm răng còn có tại một số nhóm dân tộc thiểu số ở châu Mỹ, đáng chú ý nhất là những người Shuar ở phía bắc Peru và Ecuador.

Tục lệ này vẫn tồn tại ở một số nhóm dân tộc biệt lập ở Đông Nam Á và Châu Đại Dương nhưng hầu như đã biến mất sau khi các tiêu chuẩn vẻ đẹp phương Tây du nhập vào thời kỳ thuộc địa và tiếp tục trong nhiều nhóm dân tộc thiểu số ở Trung Quốc, các đảo Thái Bình Dương và Đông Nam Á. Nó chủ yếu phổ biến ở phụ nữ lớn tuổi, mặc dù tập tục này vẫn được thực hiện bởi một số phụ nữ trẻ. Đôi khi răng giả được sử dụng để làm răng đen.

skywalkersskywalkers
Nụ cười răng đen đôn hậu. Ảnh: Skywalkers

Nhuộm răng đen ngoài có tác dụng thẩm mỹ, theo quan niệm của người Việt xưa nó còn có tác dụng bảo vệ răng khỏi “con sâu răng” vừa mang ý nghĩa đánh dấu tuổi trưởng thành. Bên cạnh đó nó cũng thể hiện sự tự tôn dân tộc. Bởi xã hội thời xưa thường chủ yếu đánh giá tính cách của con người thông qua vẻ bề ngoài. Họ cho rằng chỉ những đàng hoàng, người trưởng thành mới nhuộm răng.

Ngài ra, việc nhuộm răng đen của người Việt cũng được cho rằngđể  phân biệt với người Tàu. Từ bậc vua chúa cho tới dân đen, tất cả họ đều thực hiện phong tục này.

Có không ít người đã đánh đồng giữa tục nhuộm răng đen và tục ăn trầu. Họ cho rằng do ăn trầu nên răng mới đen chứ không xem răng đen là một phong tục riêng của người Việt. Tuy nhiên, hai tục lệ này là hoàn toàn riêng biệt, tuy chúng cùng xuất hiện trong một thời kỳ, cũng đều có tác dụng khiến cho răng được chắc.

Như vậy, cần phải khẳng định rằng, răng đen không phải là do ăn trầu. Bởi người ăn trầu mà không nhuộm răng thì răng có màu đỏ sẫm chứ không đen nhánh. Do đó, tục nhuộm răng đen là một nét văn hóa thể hiện quan niệm về cái đẹp của người Việt.

Để có được hàm răng đen nhánh hạt huyền thì người ta cần phải trải qua nhiều công đoạn nhuộm công phu và cũng không kém phần gian nan chứ không phải do ăn trầu mà có.

Các công đoạn nhuộm răng đen

Mỗi nước, mỗi dân tộc lại cách nhuộm răng khác nhau. Tại nước ta, người Thái và người Kinh thực hiện phong tục này bằng các phương pháp không giống nhau, người Kinh và người Mường thì lại có nhiều nét tương đồng nhưng chất liệu để nhuộm rặng lại khác hẳn.

Cách nhuộm răng đen của người dân tộc Thái:

Người Thái chỉ sử dụng những nguyên liệu tự nhiên có thể lấy được trong rừng và hoặc cây trồng trong vườn để nhuộm răng đen. Trong đó, chủ yếu họ dùng quả mè và bồ hóng.

Muốn răng có được màu đen bóng bền lâu thì người Thái cần chuẩn bị nguyên liệu trong khoảng 8 – 10 ngày và thực hiện pha chế theo đúng tỉ lệ sau:

Lấy quả mè non có độ chát, ăn dính răng đem đồ lên, bóc lấy vỏ. Giã nhỏ vỏ mè rồi phơi khô lên các vật dụng bằng sắt, chẳng hạn như cuốc, xẻng để chúng đen bóng hơn.

Sau khi vỏ mè khô thì cho vào nước ngâm cho mềm rồi bọc lại bằng lá chuối khô. Nướng và giã nhỏ vỏ mè lại 1 lần nữa thành bột mịn. Trộn bồ hóng (loại bụi cạo trên ống nữa ở gác bếp) với vỏ mè để tạo thành một hỗn hợp sền sệt rồi đó bôi lên răng.

Giữ nguyên hỗn hợp trên qua đêm sau đó bôi nó lên răng liên tục 3 – 5 đêm cho tới khi đạt màu ưng ý.

Mỗi lần thực hiện nhuộm răng như trên, bạn sẽ có cảm giác đau nhức, ê buốt răng. Thông thường để có màu đen bóng như mong muốn thì cần nhuộm lại sau mỗi 3 tháng.

Cách nhuộm răng đen ngày xưa của người Kinh.

Quy trình nhuộm răng của người Kinh tương đối giống với người Thái, chỉ khác biệt và mặt nguyên liệu. Cụ thể, người Kinh sử dụng bột nhựa cánh kiến, nước cốt chanh và nhựa của gáo dừa.

Theo phong tục người , người ta chỉ bắt đầu nhuộm răng khi đã thay xong lượt răng sữa, đã có một số răng hàm. Không chỉ nữ giới nhuộm răng mà nam giới cũng nhuộm răng.

ha thanhha thanh
Nụ cười tỏa nắng. Ảnh: Hà Thanh

Nhuộm răng thường được chia làm 4 công đoạn:

Đầu tiên là phải làm sạch răng, thường kéo dài 3-5 ngày. Sau mỗi bữa ăn, người nhuộm răng phải đánh sạch răng bằng vỏ cau khô, có nơi còn dùng bột than củi. Sau đó xúc miệng kỹ bằng nước có tính axit mạnh như chanh hay dấm.

Người Huế thì ngậm nước nấu từ lá cây sôn (một loại lá có vị chua). Trước khi đi ngủ có thể ngậm thêm vài lát chanh mỏng. Các biện pháp này đều có tác dụng làm sạch răng, axit sẽ làm mỏng bề mặt ngoài của men răng, giúp thuốc nhuộm dễ kết bám hơn.

Thời gian này là thời gian đau đớn nhất cho người nhuộm vì môi, lưỡi, lợi và niêm mạc trong vòm họng sưng tấy, răng lung lay như muốn rụng.

Tiếp theo là công đoạn nhuộm đỏ răng. Người ta dùng bột nhựa cánh kiến tán nhỏ, vắt chanh vào rồi để kín trong 7 ngày cho chất chua của chanh thấm vào bột cánh kiến.

Có thể thay chanh bằng giấm gạo hoặc rượu gạo. Dùng hỗn hợp này quết vào mảnh lá dừa hoặc lá cau, đợi lúc đi ngủ áp vào hai hàm răng. Làm nhiều lần như vậy cho đến khi màu cánh kiến ăn dần vào răng, màu răng chuyển dần sang đỏ thẫm là được.

Sau khi răng lên màu đỏ như ý muốn, người ta bắt đầu công đoạn nhuộm đen. Lúc này vẫn dùng bột cánh kiến, nhưng hòa với phèn đen, rồi cũng quết hỗn hợp này lên lá dừa hoặc lá cau, đợi khi đi ngủ thì áp vào răng. Lần nhuộm đen chỉ cần độ 2 đêm là được.

Cuối cùng là công đoạn chiết răng. Công đoạn này có tác dụng giữ màu đen cho răng. Người ta lấy gáo dừa già đã phơi khô để lên con dao rồi đốt cho gáo dừa chảy ra thứ nhựa đen sền sệt, rồi lấy nhựa đó phết vào răng, răng sẽ có màu đen bóng và lâu phai.

Trong thời gian nhuộm răng, người ta không những phải trải qua nhiều công đoạn phức tạp, mất nhiều thời gian, công sức mà còn phải chịu đau đớn về thể xác. Vì thuốc dùng để nhuộm răng là những chất nồng, cay nên thường làm cho môi, lưỡi, lợi của người nhuộm bị sưng tấy thật không hề dễ chịu. Nó cũng khiến người nhuộm rất vất vả trong ăn uống. Nhưng đối với việc nhuộm răng người xưa lại không nề hà những chuyện ấy, trái lại, họ rất hồ hởi khi được nhuộm răng.

Bên cạnh đó, để tránh làm phai màu thuốc lúc thuốc vẫn chưa bám chặt vào răng, trong quá trình nhuộm, người ta phải kiêng khem đủ thứ, không được ăn đồ nóng, cứng, đôi khi ăn mà không dám nhai, chỉ dám nuốt chửng, thường là chỉ ăn những thức ăn mềm lỏng như cháo, bún,… Đợi đến khi chiết răng xong thì họ mới dám ăn lại bình thường.

Răng tuy đã chiết rồi, màu đã bám chắc rồi nhưng theo thời gian thì màu răng có thể sẽ bị phai bớt. Do đó người ta cần phải nhuộm lại. Đàn ông thì nhuộm lại độ 1,2 lần, còn phụ nữ thì mỗi năm nhuộm lại một lần, đến độ qua 30 tuổi cũng không nhuộm lại nữa.

Cách nhuộm răng của người Mường

Người Mường xưa ai cũng nhuộm răng, tuổi bắt đầu nhuộm răng là từ thiếu nữ tầm 16-18, cứ tối đến là cả trai gái, cả già trẻ, từng tốp một 5 – 6 người quây quần bên bếp lửa cùng nhau nhuộm răng, nhiều đôi yêu nhau còn nhuộm răng cho nhau.

Nhuộm răng xưa như một nét đẹp, chuẩn mực, răng càng đen càng đẹp, đen nhánh, đều màu càng khéo, nhuộm răng vất vả lắm nhưng ai cũng hồ hởi… Nhuộm răng không chỉ vất vả lúc ngậm quả sống khi phải “thưởng thức” đủ vị chua, vị chát và tê buốt, khó chịu nhức nhối mà khó khăn nhất vẫn là khi ngậm mè.

Theo kinh nghiệm, người Mường khi nhuộm răng chỉ ngậm quả mè vào buổi tối – trời thật tối hẳn và ngậm 5 – 6 miếng mè vừa bằng ngón tay, thức suốt đêm khuya đến tận sáng mai khi hửng trời và bắt đầu một ngày lao động mới thì mọi người bỏ mè ra.

Quy trình dán mè như vậy được tiến hành trong 3 đêm liên tục để răng nhuộm được đen và bền màu. Các mế kể rằng, để cho răng đẹp phải thường xuyên ăn trầu để giữ màu; nếu muốn răng đen nhánh, dùng nhựa ở thân cây sim phơi khô bôi vào răng. Nhuộm răng không chỉ là một truyền thống văn hóa mà còn giúp cho răng chắc, khỏe và thể hiện cái duyên của người Mường, đặc biệt là phụ nữ Mường.

Phụ nữ Mường xưa mặc trang phục dân tộc, đầu quấn khăn trắng và ánh cười đen nhánh khỏe mạnh được coi như chuẩn mực của cái đẹp, của sự khỏe mạnh, đảm đang và khéo léo.

Tục nhuộm răng thời bấy giờ được ưa chuộng đến mức trở thành một nghề để kiếm sống. Ngày xưa, ở nông thôn lẫn thành thị đều xuất hiện những thầy nhuộm răng. Các thầy nhuộm răng thường đi từ làng này sang làng khác để hành nghề, thường nhuộm tại nhà gia chủ.

Ở thành thị như ở kinh đô Huế thì thầy nhuộm thường hành nghề ở một địa điểm cố định, người nhuộm răng thường ăn ở tại nhà thầy nhuộm trong quá trình đó. Một số nhà thầy nhuộm còn chuẩn bị cả những tiết mục mua vui để phục vụ người đến nhuộm răng.

Rất hiếm có thể còn lại những cụ bà có hàm răng đen nhánh - Ảnh: InternetRất hiếm có thể còn lại những cụ bà có hàm răng đen nhánh - Ảnh: Internet
Rất hiếm có thể còn lại những cụ bà có hàm răng đen nhánh – Ảnh: Internet

Nét đẹp xưa ai còn gìn giữ?

Hàm răng đen nhánh hạt huyền đã đi vào lịch sử và tiềm thức của biết bao nhiêu thế hệ người Việt. Một thời là tiêu chuẩn của cái đẹp và gìn giữ chiều sâu văn hóa nhưng thời gian cùng những bước chuyển mình mạnh mẽ của xã hội đã khiến quan niệm về cái đẹp của con người cũng đổi thay.

Đến cuối thế kỷ XIX, nhất là những năm đầu của thế kỷ XX, trước sự xâm nhập mạnh mẽ của nền văn minh phương Tây, Việt Nam bước vào thời kỳ biến đổi xã hội sâu sắc. Phong trào Âu hóa và phong trào đòi nữ quyền diễn ra rầm rộ.

Nhiều phụ nữ bắt đầu có xu hướng chuộng hàm răng trắng, có người còn cạo đi hàm răng đen mà mình mất bao công sức nhuộm cốt chỉ để trở thành hình tượng người phụ nữ mới tham gia vào công cuộc cải cách xã hội.

Thậm chí thời bấy giờ ai còn để tóc củ hành, răng đen, áo the, quần vải thì bị coi là hủ lậu, kém văn minh. Nếu như trước đây hình thành nghề nhuộm đen răng thì thời này xuất hiện nghề cạo trắng răng.

Như vậy, tục nhuộm răng đen vẫn còn tồn tại mãi cho đến thế kỷ XX thì người Việt mới dần dần phá bỏ tục lệ này. Ngày nay, đâu đó nơi những miền quê hay vùng cao dân tộc, chúng ta vẫn sẽ có thể bắt gặp hình ảnh của những người phụ nữ có hàm răng đen nhánh. Nhưng có lẽ họ đều là phụ nữ và đã ở tuổi bác, tuổi bà hay cụ, kị.

Khi nói đến nhuộm răng ai cũng tự hào, họ chính là nhân chứng sống cho một thời kỳ, là những người gìn giữ cái đẹp, gìn giữ văn hóa cho đời sau. Và… chắc hẳn họ không khỏi băn khoăn và tiếc nuối về vẻ đẹp vang bóng một thời nay đã lùi vào dĩ vãng.

Nhưng, thẳm sâu trong tâm tình người Việt vẫn yêu lắm, thương lắm “răng đen nhánh hạt huyền”.

Thiện An biên tập

Xem thêm
Chia sẻ bài viết: