Quan niệm và cách đối đãi của người xưa với hôn nhân
Tình cảm vợ chồng là sợi dây gắn kết hôn nhân bền chặt. Mỗi một cuộc hôn nhân hạnh phúc lại là một tín hiệu đáng mừng. Mặc dù nhân duyên vợ chồng là do trời định, nhưng, nếu chúng ta đối đãi với mối quan hệ này không chuẩn mực, gia đình không hạnh phúc có thể dẫn đến sự suy bại của cả xã hội.
Quan niệm người xưa đối với hôn nhân
Quan niệm hôn nhân của người phương Đông cổ đại hoàn toàn khác với quan niệm hôn nhân trong xã hội hiện đại. Quan niệm hôn nhân của người xưa dựa trên nền tảng sự hoà hợp giữa con người và tự nhiên để có được sự hoà hợp giữa người nam và người nữ; từ đó gia đình hạnh phúc, quốc gia ổn định. Đó là tư tưởng tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ của đức Khổng Tử.
Do đó, hôn nhân là một sự kiện trọng đại của đời người, nhất định phải được coi trọng. Dựa vào quan niệm đạo đức có tính khoa học, người nam và người nữ được cha mẹ lựa chọn bạn đời theo sự mai mối của người tinh thông lý số. Trước hết, mối nhân duyên này phải được trên là Thần Phật, dưới là cha mẹ đồng thuận sắp đặt và chứng giám.
Mỗi sinh mệnh được tạo ra bởi sự kết hợp âm dương giữa người nam và người nữ. Chỉ là thời thơ ấu ngây thơ, bản năng này ẩn nấp theo cơ chế mặc định đặc biệt của tạo hoá nên không nảy mầm trong hệ thống giác quan của trẻ nhỏ.
Người xưa có câu “gái thập tam, nam thập lục”, tức là bé gái dậy thì sớm hơn bé trai 3 năm, và ở khoảng 13 tuổi. Khi trẻ em gái đến tuổi này, cha mẹ cho các em sống trong cảnh “trướng rủ rèm che”, không để bé gái tự ý tiếp xúc với người khác giới. Lúc này, tâm sinh lý thay đổi, các em bắt đầu nảy sinh bản năng tò mò về người khác phái. Điều này ẩn chứa mối lo ngại khi người nam và người nữ bị hấp dẫn lẫn nhau, phát sinh quan hệ giới tính.
Người xưa biết rõ điều này và rất nhạy bén với nó. Họ tin rằng, đây là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình hình thành nhân cách của một con người. Thiếu niên cần phải dành thời gian cho việc học hành vào thời điểm trọng yếu này.
Điều các thiếu nữ phải học trước khi bước vào hôn nhân
Đến tuổi dây thì, các thiếu nữ bắt đầu được dạy những kỹ năng sống mà các bà nội trợ nên biết như: may vá, thêu thùa, nấu ăn, pha trà, đọc sách về luân thường đạo lý (tam tòng tứ đức), học về âm nhạc hay vẽ tranh và phát triển một số tài năng mà một người phụ nữ cần có.
Mục đích chính của việc học tập những kỹ năng trên là để định hướng về mặt tâm lý một cách cụ thể, để người nữ đạt được nhận thức đúng đắn, có được trạng thái tự tin, tốt đẹp, chuẩn bị cho cuộc sống hôn nhân sắp phải đối mặt.
Điều người nam phải học trước khi bước vào hôn nhân
Sau khi các bé trai bước vào tuổi dậy thì, người lớn sẽ coi chúng như một người đàn ông trưởng thành để đối đãi. Người nam bắt đầu học cách cư xử mực thước để hòa đồng với người cùng trang lứa có học thức. Nam thiếu niên phải biết kiềm chế lời nói và hành động của mình.
Vào thời điểm này, nam thiếu niên đã học hết tam tự kinh, chuyển sang học tứ thư, ngũ kinh, để phát triển phẩm chất của bậc trượng phu, giảm ham muốn dục vọng thấp hèn; trau dồi khả năng giao tiếp xã hội và đối nhân xử thế.
Một số người có năng khiếu cưỡi ngựa, bắn cung hay thư pháp, họ có thể tập trung vào luyện tập để tham gia các các kỳ thi tuyển nhân tài. Đó cũng là định hướng cho sự phát triển tâm lý bình thường của tuổi mới lớn, chuẩn bị cho cuộc sống hôn nhân và gia đình sắp phải đối mặt.
Cách giáo dục giới tính của người xưa
Ngoài việc giáo dục các em về các kỹ năng sống, giáo dục giới tính trước hôn nhân cũng được người xưa rất coi trọng. Giáo dục giới tính là một môn học có tính khoa học và được truyền dạy cho thế hệ sau một cách thẳng thắn, đầy đủ. Ở tuổi dậy thì, sinh lý con người dưới sự hướng dẫn của thuyết âm dương ngũ hành là một khóa học bắt buộc.
Mối liên hệ giữa sinh lý và tâm lý
Các tác phẩm kinh điển như kinh tố nữ là dựa trên việc tu dưỡng đạo đức con người một cách đúng đắn. Khóa học giáo dục giới tính trong đó giải thích mối quan hệ qua lại giữa âm-dương, nam nữ, giữa sinh lý và tâm lý. Quan hệ vợ chồng chỉ có thể được thực hiện vào thời điểm thích hợp nhất, đồng điệu nhất giữa cơ thể con người và môi trường tự nhiên bên ngoài.
Giữ gìn sự trong trắng trước hôn nhân là điều kiện cần để bảo trì tâm hồn tinh khiết. Điều đó có lợi cho sự phát triển hòa hợp cả về sinh lý và tâm lý của đôi trẻ trong hôn nhân.
Ngày giờ của đêm tân hôn đã được người mai mối xác định trước bằng phép tính có hệ thống và chính xác vào thời bấy giờ. Người nam và người nữ xa lạ thiết lập mối quan hệ vợ chồng chính thức trong đêm tân hôn của họ; đồng thời thiết lập sự hiểu biết lẫn nhau thông qua trao đổi thể xác. Vì là lần đầu tiên của cả hai nên ấn tượng khó quên.
Một ngày sau khi kết hôn, mối tình mới thực sự bắt đầu. Vì đã là vợ chồng, họ sẽ chú ý hơn để tìm ra điểm mạnh của nhau, khuyến khích và giúp bổ sung những thiếu sót cho nhau nhau với sự khoan dung và nhẫn nại lớn nhất.
Vợ chồng học cách thấu hiểu nhau, đạt đến sự cân bằng hoà hợp
Thông qua việc trao đổi về thơ ca, kinh điển, thư pháp và hội họa, thảo luận về nấu ăn và thưởng thức trà, hai người có thể cô đọng nhận thức chung về cuộc sống, xã hội và thiên nhiên. Họ cùng vun đắp thêm trí thức cho nhau, cùng nhau có những mối quan tâm chung trong cuộc sống.
Khi sự giao tiếp và ăn ở chung này đạt đến một mức độ nhất định thì trạng thái của tình yêu thiêng liêng sẽ được hình thành. Chẳng hạn như: ý kiến về một bài thơ, một bức tranh, một khung cảnh, hoặc sự sắp xếp của một sự vật trong nhà mà không cần nói nhiều, một cái nhìn của nhau, một nụ cười của sự hiểu biết, có thể đạt được sự đồng thuận. Lúc này, vợ chồng dường như luôn trong tình trạng thấu hiểu lẫn nhau mà không cần dùng đến lời lẽ.
Chúng ta có thể tưởng tượng cảnh, khi người chồng đi chơi về muộn, thấy bóng người vợ thân yêu ngồi chờ bên cửa sổ dưới ngọn đèn. Người vợ bất giác mở cửa nhìn xung quanh thì cũng thấy bóng dáng người chồng. Cô lặng nhìn anh từ xa, khi ánh mắt chạm nhau, họ và trao nhau sự ân cần. Sau đó một người lặng lẽ ngồi xuống, và người kia lặng lẽ phục vụ trà.
Đến đây, chúng ta không còn khó hiểu tại sao trong các cặp vợ chồng thời xưa, lại xảy ra trường hợp khi một trong hai người không may chết yểu, người phụ nữ trở thành góa phụ với tấm lòng trong trắng, còn người đàn ông thì không tái hôn.
Đó không phải là sự áp đặt của cái gọi là nghi thức phong kiến như các thế hệ sau nhận định, mà hoàn toàn là sự tự nguyện. Khi mối quan hệ đạt được mức thiêng liêng, sẽ không ai có thể thay thế một trong hai, hay thay lòng đổi dạ. Bởi vì mối quan hệ giữa họ đã hoàn toàn vượt lên trên tình yêu nam nữ thông thường.
Vợ và chồng đã trở thành một phần của nhau, thành một tổng thể không thể bị chia cắt. Vì vậy, quan hệ vợ chồng thời xưa là một quá trình thăng hoa dần dần từ tình dục đến tình yêu rồi từ tình yêu lên tình thương, sự thấu hiểu cao thượng.
Qua đó, không khó để thấy rằng, quan niệm hôn nhân của người xưa xuất phát điểm là để đạt được mục đích thăng hoa về tinh thần một cách vô cùng khoa học. Gia đình là nơi hun đúc tình yêu, sự thấu hiểu, lòng trung thành, nhân từ và bao dung. Khi tình cảm vợ chồng đạt đến sự hòa hợp đó, cả gia đình sẽ tự nhiên xích lại gần nhau. Với tư cách là những tế bào tạo nên xã hội, sự hòa thuận của gia đình đương nhiên sẽ dẫn đến sự hài hòa chung của xã hội.
Đạo lý tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ cũng là đường lối chính trong quan niệm hôn nhân của người xưa. Tình cảm vợ chồng là một quá trình thăng hoa, bắt đầu từ không có, trở thành có nhờ vào quan hệ thân mật, qua đó họ tìm hiểu và mong muốn đáp ứng lẫn nhau. Cũng từ hôn nhân mà hình thành nên những phẩm chất cao quý.
Minh Nguyệt biên tập
Nguồn: truyenthong