Blog
“Quân pháp bất vị thân”, vị vua này đã ra lệnh xử trảm cha vợ
Dù có nhiều công trạng nhưng vì tư lợi cá nhân, người nắm quyền lực thứ nhì của Gia Định năm xưa, đồng thời là cha vợ vua Minh Mạng lại bị chính con rể ra lệnh chém đầu.
Sử nhà Nguyễn đã ghi khá rõ và đầy đủ sự kiện vụ án này. Huỳnh Công Lý là một đại thần dày công của triều đình, nhậm chức Phó Tổng Trấn Gia Định thành vào năm 1820. Ông cũng là cha của Huệ Phi – một vị ái phi của vua Minh Mạng.
Ông Lý vốn là võ tướng dưới thời vua Gia Long và là đại thần từng có nhiều công trạng hiển hách khi huy động 10 vạn người đào kinh Tàu Hủ (lúc trước có tên An Thông Hà) giúp Sài Gòn kết nối với miền Tây bằng đường thủy. Sau khi gả con gái cho hoàng tử Nguyễn Phước Đảm (vua Minh Mạng sau này), và đặc biệt là khi con trở thành Huệ Phi thì sự nghiệp của ông thăng tiến vượt bậc.
Để có cuộc sống bình an và hút nhiều tài lộc, hãy tham khảo các vật phẩm phong thủy thủ công của Hòn Ngọc nhé!
Lẵng Tài Lộc Buôn May Bán Đắt
Tháp Tỏi Ngũ Hạt Hút Tài Lộc
Vòng Tỏi May Mắn Chiêu Tài Hút Lộc
Tháng 7 năm 1820 bên nước Chân Lạp có thầy tu tên Kế (sử Việt gọi Sư Kế) vận động những người dân bất mãn tràn sang đánh phá Gia Định. Nhiều tướng nhà Nguyễn được sai đi dẹp nhưng bất thành. Chỉ đến khi ông Lý đem quân đánh mới thắng trận, đồng thời giúp nước Chân Lạp đuổi quân Sư Kế chạy dài.
Tuy lập được công lớn nhưng Huỳnh Công Lý lại bị các vị quan binh và dân chúng tố cáo 10 điều vi phạm trong thời gian làm việc ở Gia Định thành, chủ yếu là việc tham nhũng, lạm dụng công quỹ và sách nhiễu dân chúng.
Ngay sau đó, Tả quân Lê Văn Duyệt (1763-1832) đã khởi tố vụ án rồi tâu về triều. Nhận được bản tấu, vua Minh Mạng đã nói với Nguyễn Văn Nhơn và Nguyễn Đức Xuyên rằng: “Không ngờ Công Lý quá đến thế, công trạng nó có gì bằng các khanh, duy nhờ Tiên đế cất nhắc, ngôi đến Phó tổng trấn, lộc nước ơn vua, thực không phải bạc, thế mà lại bóc lột tiểu dân, làm con mọt nước. Nay tuy dùng phép buộc tội, nhưng dân đã khốn khổ rồi”(Đại Nam Thực Lục).
Sau đó, nhà vua hội bàn với các đại thần và cho bắt giam Huỳnh Công Lý. Xét thấy nếu triệu Lý về kinh, phải đòi nhân chứng đến, đường sá xa xôi. Do đó, để tiện hơn cả vua Minh Mạng bèn cử Thiêm sự Bộ Hình là Nguyễn Đình Thịnh vào Gia Định, phối hợp Tào Hình mà xét hỏi ngay phạm nhân tại thành Gia Định.
Kết cuộc, ngoài số tiền tham nhũng trên 3 vạn quan, lúc ông Lý làm quan ở kinh thành Huế đã bắt lính xây dựng 3 cửa hàng gạch bên bờ sông Hương để tư lợi. Đình thần luận tội, khép Huỳnh Công Lý vào tội chết.
Vua Minh Mạng không hề vị nể tình thân mà đã phê duyệt bản án xử tử cha vợ. Ông nói với các thần tử rằng: “Trẫm nuôi dân như con, thực không kể phí tổn. Nhưng bọn quan lại tham lam giảo quyệt, ngấm ngầm chứa đầy túi riêng, mà kẻ quan quả cô độc lại không được thấm nhuần ơn thực. Gần đây Hoàng Công Lý làm Phó Tổng trấn Gia Định không bao lâu mà bóc lột của dân đến trên 3 vạn. Nếu các viên mục thú đều như y cả, thì dân ta còn cậy vào đâu…” (Đại Nam Thực lục).
Giữa năm 1821, Huỳnh Công Lý bị xử tử tại đồng “Mả ngụy” tại Gia Định Sài Gòn. Số tài sản tham nhũng được chi trả lại cho quân lính và người dân. Cửa hàng gạch ở Huế thì được bán để lấy tiền giúp cho cấm binh. Con gái ông Lý là Huệ Phi đồng thời bị giáng ngôi vị và đuổi ra khỏi cung về làm dân thường.
Vụ án này không chỉ dính đến cá nhân Huỳnh Công Lý, mà còn làm liên lụy đến nhiều quan lại khác. Tháng 3 Âm Lịch năm 1821, ba quan chức trấn Biên Hòa là Trấn thủ Tống Văn Khương, Ký lục Hoàng Công Xuân, Cai bạ Bùi Phụ Đạo từng bắt binh dân trong phạm vi hạt của họ làm việc riêng cho Huỳnh Công Lý đều bị bãi chức cả.
Tháng 12 Âm Lịch năm Canh Thìn 1820, nhằm Tháng Giêng năm 1821, trong một buổi hội đình thần, vua Minh Mạng cũng đem trường hợp Huỳnh Công Lý ra để răn đe thần tử: “Gia Định là nơi đất rộng dân nhiều. Hoàng khảo ta mưu tính, thành lập quân lữ, khôi phục dư đồ, cái nền móng xây dựng cơ nghiệp thực là ở đấy. Từ trước đến nay vẫn thận trọng lựa chọn những trọng thần công lao danh vọng sai trấn phủ cho muôn dân yên ổn. Không may có Hoàng Công Lý, lấy tư cách đê hèn, chứa chất thói tham bạo, vặn trái pháp luật, ăn lót kể đén muôn vàn, bắt người làm việc riêng mỗi lần đến mấy nghìn, mọt nước hại dân đến thế là cùng. Nghĩ đến người vô tội mà gặp nỗi độc hại này, dù của cải đền được nhưng nỗi khổ lâu ngày khó mà hồi được. Nay tội nhân như thế, pháp luật phải thi hành, để cho nhân dân uất ức một phương đều rõ cái ý trừ bạo an dân của triều đình” (Đại Nam Thực Lục).
Tuy là thời phong kiến, song luật pháp nhà Nguyễn lúc bấy giờ hết sức nghiêm khắc đối với kẻ làm quan. Tháng 5 năm Minh Mệnh thứ 2, nhà vua đã ra chỉ dụ: “Từ nay về sau bất kể quân lính trong ngoài, gặp phải các viên biền tham lam ngược đãi như vậy mà vướng chỗ quyền thế không nói ra được thì cho phép tâu trình, Trẫm sẽ tìm ra căn nguyên để trị tội kẻ tham nhũng. Hãy kính theo Dụ này” (Ngự Chế Văn).
Với những dẫn chứng trong chính sử nói trên; có thể thấy rằng vua Minh Mạng là một vị vua anh minh, tài đức vẹn toàn, “quân pháp bất vị thân” để giữ gìn phép nước. Thân là người đứng đầu Đại Nam, ông không vì tình cảm cá nhân mà dung túng cho cái xấu, một lòng vì chính nghĩa, một lòng vì người dân. Hậu thế chúng ta ngày nay chẳng phải rất cần nhìn gương người xưa để học tập hay sao?.
Viên Minh biên tập.
Nguồn: Vietnamnet