Blog
Sau chiến dịch Tĩnh Nan đoạt ngôi cháu, Chu Đệ đã làm gì để củng cố quyền lực và phát triển Minh triều?
Minh Thành Tổ (1360-1424) tên thật là Chu Đệ, trong suốt khoảng thời gian nắm quyền từ năm 1402 đến năm 1424, ông lấy niên hiệu “Vĩnh Lạc”. Là con trai thứ 4 của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, vốn được phong làm Yến Vương, song vào những năm đầu niên hiệu Kiến Văn (năm 1399), ông khởi binh phát động chiến dịch “Tĩnh Nan”, đến năm thứ 4 dẫn quân công phá Kinh Sư (nay là Nam Kinh, Giang Tô), lấy được đế vị.
Bối cảnh phát triển
Minh Thành Tổ sinh ra trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc vào cuối triều Nguyên. Khi đó các thế lực bạo loạn liên tiếp khởi dậy hô vương xưng bá, thảo phạt lẫn nhau. Tương truyền rằng bởi vì Thành Tổ ra đời trong khoảng thời gian giao chiến cam go kịch liệt giữa Chu Nguyên Chương và Trần Hữu Lượng, nên mãi đến khi Thành Tổ được 7 tuổi, ông ấy mới có thời gian đặt tên cho con trai mình.
Minh Thành Tổ sau khi trưởng thành được phong làm Yến Vương, chính là phiên vương Bắc Bình (nay là Bắc Kinh). Ông kết hôn với trưởng nữ của Từ Đạt, người vợ này đã trở thành hậu phương vững chắc cho ông. Yến Vương là một trong những thế lực lớn mạnh nhất trong các phiên vương, trải qua quá trình chống lại sự quấy nhiễu từ các bộ tộc Mông Cổ, ông được tôi luyện mài dũa, đồng thời bước đầu phô diễn được tài năng quân sự thao lược của mình.
Chiến dịch “Tĩnh Nan”
Sau khi Minh Triều thiết lập, Minh Thái Tổ ấp ủ ý nguyện kéo dài thời gian trị vì cầm quyền của hậu duệ huyết thống Chu gia, trên cơ sở dựa theo chế độ phân đất phong hầu của nhà Nguyên mà điều chỉnh cải cách một số phương án chiến lược, đưa ra chính sách chia lãnh địa ban ngôi vị phiên vương cho các hoàng tử, giao phó cho họ quyền lực rất lớn, từ đó tạo nền móng thiết lập “Tấm lá chắn bảo vệ Hoàng thất”.
Để có cuộc sống bình an và hút nhiều tài lộc, hãy tham khảo các vật phẩm phong thủy thủ công của Hòn Ngọc nhé!
Lẵng Tài Lộc Buôn May Bán Đắt
Tháp Tỏi Ngũ Hạt Hút Tài Lộc
Vòng Tỏi May Mắn Chiêu Tài Hút Lộc
Năm Hồng Vũ thứ 31 (năm 1398), sau khi Minh Thái Tổ qua đời, Minh Huệ Đế Chu Doãn Văn kế vị với tư cách Hoàng thái tôn, cảm thấy thế lực của các phiên vương ngày càng phát triển lớn mạnh vững chắc, uy hiếp đến hoàng vị của mình, Chu Doãn Văn lập tức liên kết với đại thần Tề Thái, Hoàng Tử Trừng toan tính âm mưu diệt phiên.
Năm đầu Kiến Văn (năm 1399), Yến Vương Chu Đệ lấy cờ hiệu “Thanh quân trắc, tĩnh nội nan” (Thanh trừ quân vương hèn kém, dẹp yên nội nạn), trên danh nghĩa trừng phạt gian thần Tề Thái, Hoàng Tử Trừng, phát lời tuyên thệ khởi binh, được lịch sử ghi chép dưới tên gọi “Chiến dịch Tĩnh nan”.
Ba năm sau tiến hành tấn công chiếm lĩnh Kinh Sư (nay là Nam Kinh, Giang Tô), lúc đó “Đô thành trong vòng bao vây khống chế, cung điện bị thiêu rụi, hoàng đế không biết ở nơi đâu”. Nối tiếp dòng chảy lịch sử, Yến Vương đăng cơ đế vị, trở thành Minh Thành Tổ, một năm sau đổi niên hiệu “Vĩnh Lạc”. Năm Vĩnh Lạc thứ 19 (năm 1421) dời đô đến Bắc Kinh, Nam Kinh trở thành thủ phủ cũ.
Cống hiến vĩ đại – sự nghiệp vẻ vang
Chu Đệ thừa hưởng những đức tính cao đẹp của Chu Nguyên Chương như siêng năng, cần kiệm, thấu hiểu cảm thông với bách tính, đồng thời cũng không bị ảnh hưởng bởi các mặt hạn chế như nghi kỵ, thiên vị, võ đoán giống cha mình.
Ông chủ trương “lấy khoan hồng để thi hành luật pháp”, “lấy chân thành để đối đãi nhân dân”, chú ý bảo tồn phát huy thành tựu của những bậc tiền bối, dốc lòng xây dựng đất nước, đưa Đại Minh trong những năm Vĩnh Lạc bước vào thời kỳ phát triển hưng thịnh, huy hoàng lưu danh sử sách.
Sau khi lên ngôi, Chu Đệ liền ban hành thực thi một hệ thống các phương sách. Nhiều nhà lịch sử học cho rằng những cống hiến và thành quả trên phương diện chính trị của Minh Thành Tổ Vĩnh Lạc trong những năm tại vị đủ để sánh ngang với thời kỳ phát triển đỉnh cao của nhà Hán, nhà Đường.
Hán Vũ Đế vì mở “con đường kết nối Tây Vực” mà trở nên nổi danh, Đường Thái Tông được tôn vinh là “Thiên Khả Hãn” mà danh tiếng lẫy lừng, còn Minh Thành Tổ vì chính sách “vượt biển băng núi xây dựng mối quan hệ ngoại giao với các nước phương Tây (Tây Dương)” mà vang danh truyền thế. Bởi vậy, “Vĩnh Lạc thịnh thế” quả thật không phải là những lời bình phẩm trống rỗng, hư danh, đắc ý.
Những thành tựu, cống hiến vĩ đại trong sự nghiệp trị quốc của Minh Thành Tổ gắn liền với tiến trình phát triển đất nước và theo sát từng bước chuyển mình của “bánh xe” lịch sử, bao gồm những mốc son nổi bật như: Năm lần ngự giá thân chinh thảo phạt Mạc Bắc, phái cử sứ thần Trịnh Hòa sang Tây Dương khám phá các vùng đất mới và xây dựng mở rộng mối quan hệ ngoại giao, chỉ đạo hoàn thiện cuốn bách khoa toàn thư “Vĩnh Lạc đại điển”, huy động 80 vạn đại quân xuống An Nam, mở kênh đào lớn thông thương cảng biển, xây dựng Bắc Kinh với quy mô lớn, vv.
Năm lần ngự giá thân chinh thảo phạt Mông Cổ
Minh Thành Tổ Chu Đệ năm lần ngự giá thân chinh thảo phạt các bộ tộc ở Mạc Bắc Mông Cổ, thể hiện một phong thái, khí phách kiệt xuất hiếm có trong lịch sử các vương triều đại đế. Tàn dư thế lực của triều Nguyên phân rã thành ba bộ phận lớn là dân tộc Tác-ta, bộ tộc Ngõa Lạt và Ngột Lương Cáp.
Ngột Lương Cáp quy thuận nhà Minh, Minh Thái Tổ đã thiết lập tại Đóa Nhan 3 đồn vệ binh kiểm sát. Trong khi đó dân tộc Tác-ta, bộ tộc Ngõa Lạt lại kiên quyết chống cự, từ chối quy phục đầu hàng, đôi khi còn tiến hành tập kích dàn binh bố trận gây rối nhiễu loạn.
Từ năm Vĩnh Lạc thứ 8 (1410) đến năm Vĩnh Lạc thứ 22 (1424) Minh Thành Tổ đã 5 lần đích thân chinh phạt Mạc Bắc, lần lượt đánh bại dân tộc Tác-ta, bộ tộc Ngõa Lạt, ban tước phong vương cho thủ lĩnh của dân tộc Tác-ta và bộ tộc Ngõa Lạt, thỏa hiệp đồng thuận tiếp nhận cống phẩm, trao đổi thông thương hàng hóa. Cũng như tiến thêm một bước trong tiến trình xây dựng Trường Thành, thiết lập một hệ thống phòng thủ trên “chín phương diện”.
Đồng thời, dựa vào các Đô ti Liêu Đông được thiết lập dưới thời Hồng Vũ, ông tiếp tục chiêu hàng dân tộc Nữ Chân vùng Đông Bắc, vào năm Vĩnh Lạc thứ 7 (1409) thành lập Đô ti Nô Nhi Can (Ti sở đặt tại Đặc Lâm, nằm ở cửa sông Hắc Long Giang giáp biên giới lãnh thổ Liên Bang Nga ngày nay).
Tại Tây Bắc, trên cơ sở ba đồn vệ binh kiểm soát được thiết lập từ thời Hồng Vũ là An Định, A Đoan, Khúc Tiên, Minh Thành Tổ tiếp tục mở rộng về phía Tây, tăng cường xây dựng bố trí thêm 4 đồn vệ binh kiểm soát ở Hãn Đông, Xích Cân Mông Cổ, Sa Châu, Ha Mi, hợp nhất lại được gọi là “Quan Tây Thất Vệ”.
Ở phía Tây Nam, bên cạnh cơ sở Đô ti Vân Nam, quan bố chính Vân Nam và Đô ti Quý Châu được xây dựng trong thời kỳ niên hiệu Hồng Vũ trước đây, ông tiếp bước bổ sung thành lập quan Bố chính ti Quý Châu.
Phục hồi và phát triển nền kinh tế
Nhằm khôi phục lại hình thái xã hội và tình hình sản xuất sau những tổn thất nặng nề của chiến dịch Tĩnh Nan, Minh Thành Tổ tiếp tục thực thi chính sách từng được áp dụng trong thời kỳ Hồng Vũ trước đây là ‘di dân đóng quân khai hoang’ và ‘đồn điền quân sĩ’, đồng thời khởi công xây dựng các công trình thủy lợi, tiếp viện cứu trợ thiên tai lũ lụt – hạn hán, nông nghiệp và thủ công mỹ nghệ cũng nhanh chóng phục hồi và phát triển.
Trong suốt thời kỳ Vĩnh Lạc, nguồn thu ngân sách nhà nước về thóc thuế bình quân hàng năm khoảng 31788696 tạ, lớn hơn số lượng bình quân hàng năm của niên hiệu Hồng Vũ là 28734250 tạ. “Gạo Đồn Điền thường nhiều hơn gấp một phần ba”
Phái cử sứ thần Trịnh Hòa xuống Tây Dương
Minh Thành Tổ vang danh truyền thế với khí phách hào hùng, nhất là kể từ khi ông ra quyết định phái cử sứ thần Trịnh Hòa vượt biển tìm kiếm đối tác ngoại giao, thông thương hàng hóa, có thể nói chính sách này đã phô diễn trọn vẹn tầm nhìn sâu rộng của một đại thủ lĩnh, của một bậc đế vương kiệt xuất.
Ông hạ lệnh cho Trịnh Hòa nhận sứ mệnh ngoại giao tại nhiều vùng đất ở Nam Dương, tiếp tục đi sứ xa hơn đến Đông Phi, nhằm xây dựng tiền đề, tạo bước đệm thúc đẩy sự phát triển trên phương diện kinh tế và giao thoa văn hóa giữa Trung Quốc cùng các nước Á Phi.
Thụ lệnh triều đình thu nạp các cống phẩm của hơn 30 quốc gia, phát triển mở rộng mối quan hệ đối ngoại. Trong những năm Vĩnh Lạc, chính sách phái Trịnh Hòa đi sứ Tây Dương của Minh Thành Tổ đã mang uy danh của nhà Minh lan truyền tại nhiều quốc gia hải ngoại.
Có thể nói thời kỳ Vĩnh Lạc Minh Thành Tổ tại vị chính là thời kỳ phát triển đỉnh cao hưng thịnh của triều đại nhà Minh. Thật vậy, vào thời điểm đó, nếu huy động hợp nhất toàn bộ sức mạnh quốc gia trên mọi phương diện thì bất luận là ở Châu Á hay trên toàn thế giới, đều được coi là đệ nhất, không ai sánh kịp.
Hoàn thiện cuốn bách khoa toàn thư “Vĩnh Lạc Đại Điển”
Minh Thành Tổ đồng thời cũng chú ý đến thành tựu về văn hóa giáo dục, phát huy tinh thần nhân văn. Trong những năm đầu của niên hiệu Vĩnh Lạc, Minh Thành Tổ ngay từ thời điểm tiếp nhận đế vị đã ban hành một hệ thống mệnh lệnh, chỉ thị cho Giải Tấn tập hợp và tổ chức biên soạn lại toàn bộ những cuốn thư sách trong thiên hạ trở thành “Vĩnh Lạc đại điển”, nhằm mục đích bảo tồn gìn giữ một kho tàng đồ sộ về thư sách văn hóa cổ đại.
Giải Tấn phụng mệnh, lập tức bắt tay tiến hành thực hiện nhiệm vụ. Căn cứ vào cơ sở ban đầu là kho lưu trữ thư sách trong Văn Uyên Các ở Nam Kinh, bao gồm ngũ Đại thập Quốc Tống, Liêu, Kim, Nguyên và thời kỳ đầu nhà Minh, hết thảy những cuốn “cổ thư Trung Quốc lưu trữ bí mật” được tích lũy trong suốt bề dày lịch sử hơn 500 năm.
Dựa theo kinh, sử, tử, tập, bách gia, thiên văn, địa lý, âm dương, y bốc, tăng đạo, kỹ nghệ được được biên tập hợp nhất lại trong một cuốn toàn thư, vào tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 2 thỉnh dâng lên Minh Thành Tổ. Minh Thành Tổ xem xong liền gật đầu khen ngợi, ban tặng lời tán thưởng “Văn hiến (Tài liệu lịch sử) Đại Thành”.
Tuy nhiên, Thành Tổ vẫn chưa thật sự tâm đắc, ông muốn kiếm tìm và thu thập được toàn bộ đầy đủ những cuốn cổ thư thất lạc trong thiên hạ, vì vậy tiếp tục phái cử thêm Diêu Quảng Hiếu cùng phụ trách kiểm tra giám sát việc biên soạn, và hạ lệnh cho Vương Cảnh, Hồ Nghiễm làm quan tổng tài (chức quan đứng đầu cơ quan soạn sách).
Thu nạp, huy động tất cả những người có học thức cao trên cả nước tham gia vào nhóm biên tập chỉnh lý, đồng thời điều động thêm quốc tử giám cùng ngoại quận học viên đảm nhiệm công tác sao chép, tổng cộng vận động được hơn 2000 người, quả thật đây là một chỉnh thể công tác với quy mô thanh thế vô cùng to lớn.
Giải Tấn đứng đầu một nhóm biên tập khổng lồ như vậy, không ngủ không nghỉ miệt mài làm việc trong suốt ba năm, cuối cùng vào năm Vĩnh Lạc thứ 5 đã đại công cáo thành, tập toàn thư bao gồm 22.937 cuốn, tổng cộng xếp thành 11.095 tập lớn, được mệnh danh là “Vĩnh Lạc đại điển”.
Sau khi hoàn thành việc biên soạn Vĩnh Lạc đại điển, cuốn toàn thư được cất giữ như một bảo vật tại Văn Uyên Các ở Nam Kinh. Trong quá trình Vĩnh Lạc dời đô, nó cũng đồng thời được chuyển đến Bắc Kinh, bí mật lưu trữ trong Cố Cung ở Văn Lâu (tức là Văn Chiêu Các).
Vào tháng 8 năm Gia Tĩnh thứ 41 (năm 1562) đã được sao chép thành một phó bản khác, từ đó “Vĩnh Lạc đại điển” có hai bộ là bản gốc và bản sao, được phân chia cất giữ tại Văn Uyên Các và Hoàng Sử Thành.
Tập toàn thư bao gồm thiên văn, địa lý, nhân luân, quốc thống, đạo đức, chế độ chính trị, danh vật, kỳ quan hiếm thấy cùng với ngày, tháng, sao, mưa, gió, mây, sương giá, sương mù và núi biển, sông lớn, vv được tập hợp theo hình thức văn tự.
Tập toàn thư đã phân loại, biên soạn sao lục từ hơn tám vạn tư liệu sách cổ của thời đại Tiên Tần (là giai đoạn lịch sử của Trung Quốc trước khi nhà Tần thống nhất) cho đến đầu thời kỳ nhà Minh, nói chung kinh, sử, tử, tập (các loại sách Kinh điển, Lịch sử, Chư tử, Văn tập) cùng thư sách của học phái Tạp Gia y bốc, đạo thích hết thảy đều được thu thập chỉnh lý, còn bổ sung phân thành từng nhóm tập trung, vô cùng kiện toàn, rõ ràng, đầy đủ.
Vĩnh Lạc đại điển đã bảo tồn được một hệ thống tài liệu khổng lồ, giàu giá trị tinh thần và phong phú trên mọi phương diện về triết học, lịch sử, địa lý, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, tôn giáo, khoa học kỹ thuật, vv từ trước triều đại nhà Minh.
Đánh giá lịch sử
Năm Vĩnh Lạc thứ 22 (năm 1424), Minh Thành Tổ xuất chinh Bắc Cương, ông băng hà vào tháng 7 trên đường đến Du Mộc Xuyên. Sau này ông được tôn vinh với Thụy hiệu là Thể Thiên Hoằng Đạo Cao Minh Quảng Vận Thánh Vũ Thần Công Thuần Nhân Chí Hiếu Văn hoàng đế, miếu hiệu Thái Tông, an táng tại Trường Lăng Xương Bình Minh, Bắc Kinh.
Tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 17 (năm 1538), ông được thay đổi Thụy hiệu là Khải Thiên Hoằng Đạo Cao Minh Triệu Vận Thánh Vũ Thần Công Thuần Nhân Chí Hiếu Văn hoàng đế, miếu hiệu Thành Tổ.
Minh Thành Tổ trong suốt 22 năm tại vị, là một hoàng đế tài năng tinh thông hiếm thấy trong các triều đại đế vương, “Lịch sử nhà Minh” ghi chép về ông với những lời bình phẩm như “trí dũng lỗi lạc”, “mưu lược vô song, quá giống tiên đế”.
Xét trên mọi phương diện chính trị, quân sự, văn hóa, ngoại giao, vv của triều đại nhà Minh đều hiển lộ khí phách bất phàm, đủ để so sánh với thời kỳ phồn vinh thịnh thế của nhà Hán, nhà Đường, có thể nói cơ sở phát triển vững chắc của Đại Minh được kiến tạo gây dựng từ những cống hiến vĩ đại trong sự nghiệp trị quốc vẻ vang của một vị hoàng đế cao minh kiệt xuất.
Theo DKN