Tại sao bá quan, danh sĩ triều Đường lại sợ Việt Nam đến vậy?
Thời Đường, khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay bị người Hoa Hạ thôn tính, và gọi với cái tên Giao Chỉ, Giao Châu, và sau là An Nam Đô hộ phủ. Lúc này, nước ta bị coi là một vùng biên viễn xa xôi đầy sơn lam chướng khí, thổ nhưỡng dị biệt, dân chúng hung mãnh, nên ít người Trung Nguyên nào nguyện ý đến nhậm chức cai quản, và cũng không lạ khi đây là nơi thường xuyên được dùng để đày ải, biếm trích những quan chức, danh nhân làm phật ý bề trên.
1. Chết vì Giao Châu dù chưa đặt chân đến Giao Châu
Năm Trinh Quán thứ 2 thời Đường Thái Tông, tông thất nhà Đường là Lý Thọ làm Đô đốc Giao Châu tham ô phải tội. Vua Đường thấy Thứ sử Doanh Châu là Lư Tổ Thượng có tài kiêm văn võ, liền gọi vào triều, dụ rằng: “Giao Châu đã lâu không được người giỏi, các đô đốc trước sau đều không xứng chức. Khanh có tài thao lược dẹp yên biên giới, hãy vì ta sang trấn giữ đất ấy, chớ lấy đường xa mà từ chối”.
Tổ Thượng lạy tạ, rồi lại hối hận, lấy cớ đau ốm mà từ chối. Vua Đường sai Đỗ Như Hối bảo cho Tổ Thượng biết ý vua. Tổ Thượng vẫn cố từ. Lại sai Chu Phạm là anh vợ của Tổ Thượng đến dụ rằng: “Người thường đã hứa với nhau còn biết giữ chữ tín, khanh đã hứa trước mặt trẫm, há trái lời hay sao? Nên sớm lên đường, sau ba năm tất gọi về, trẫm không nuốt lời”.
Tổ Thượng trả lời rằng: “Đất Lĩnh Nam lam chướng, dịch lệ, đó là cái lẽ đã ra đi thì không trở về”.
Vua Đường tức giận nói: “Ta sai người không đi, còn làm chính lệnh thế nào được nữa”.
Nói rồi, vua Đường sai chém ngay ở triều đường. Sau vua hối hận, cho khôi phục quan tước và cho con cháu thừa ấm, đồng thời ra lệnh từ đó về sau, khi có lệnh tử hình sẽ được phép 3 lần trình tấu can gián đảo ngược phán quyết.
Đến năm Trinh Quán thứ 9, tông thất nhà Đường là Lý Đạo Hưng làm Đô đốc Giao Châu vì bệnh chướng khí chết ở quan phủ.
Có thể thấy nỗi ám ảnh với đất dữ Giao Châu đã bắt đầu ngay từ buổi đầu nhà Đường.
2. Vương Bột – thiên tài yểu mệnh
Vương Bột, người đứng đầu “Sơ Đường tứ kiệt”, tiếng tăm lừng lẫy của ông gắn liền với câu thơ hùng tráng: “Hải nội tồn tri kỷ, thiên nhai nhược tỉ lân” trong “Đằng vương các tự”. Bài thơ này được làm chính vào khi ông lặn lội đường xá xa xôi đi thăm cha mình là Vương Phúc – đang bị biếm đến phương Nam làm Giao Chỉ lệnh.
Vương Bột bộc lộ tài năng hơn đời từ rất sớm, lại có chí cầu công danh, thường làm thơ văn cho giới hoàng gia quý tộc, ai cũng ưa thích. Ông viết gì cũng không cần nháp, có lúc ngủ dậy cái là lập tức hạ bút viết được ra ngay, người đời khen là “phúc cảo”, ý nói mọi thứ có sẵn trong bụng hết cả.
Một lần, các vị vương tử tổ chức chọi gà, Vương Bột làm cho Bái Vương bài “Hịch Anh Vương Kê”, Đường Cao Tông xem xong thì nổi giận, cho rằng ông xúi giục vương tử đấu đá tranh giành ngôi báu, bèn trục xuất cha con Vương Bột khỏi Trường An.
Sau nhiều vất vả quay trở lại được quan lộ, Vương Bột được đến Quắc Châu nhận nhiệm vụ. Có viên quan nô tên Tào Đạt phạm tội, xin Vương Bột che giấu. Ban đầu Vương Bột đồng ý, nhưng sau nghĩ sợ lộ, bèn bí mật giết Tào Đạt. Sự việc bại lộ, Vương Bột bị phán tử hình. Nhưng may sao gặp lúc thiên hạ đại xá, tội chết tránh được, nhưng tội sống khó tha, Vương Bột chịu phạt giam, cha của ông cũng liên lụy bị biếm trích đi làm Giao Chỉ lệnh.
Sau khi Vương Bột ra tù, triều đình cho phép ông khôi phục chức cũ, nhưng ông không nhận, trong lòng hối hận, lựa chọn đi về phương Nam thăm cha già. Khi qua Nam Xương, vừa đúng dịp điển lễ mừng Đằng Vương Các trùng tu xong, ông đã viết ra áng văn bất hủ “Đằng Vương Các tự”. Đáng tiếc, sau cuộc gặp ngắn ngủi với cha tại Giao Chỉ, trên tàu trở về, ông ngã xuống biển chết đuối, lúc ấy vừa 27 tuổi. Cha già nghe tin dữ, thê lương vô cùng.
Có thuyết nói, xác ông trôi vào bờ nước ta, được người dân lập mộ phần. Đến nay quả thực vẫn còn bia kỷ niệm tại Nghệ An, Việt Nam.
3. Đỗ Thẩm Ngôn, ông nội Thi thánh Đỗ Phủ
Đỗ Thẩm Ngôn – ông nội của thi thánh Đỗ Phủ – cũng là một nhà thơ nổi tiếng. Ông là người sáng tạo ra thể loại “cận thể thi” và vinh dự có mặt trong tuyển tập thơ nổi tiếng “Đường thi tam bách thủ”. Đỗ Thẩm Ngôn vốn thân thiết với người tình Trương Dịch Chi của Võ Tắc Thiên. Đến khi Võ Tắc Thiên qua đời, phe cách mạng đưa Đường Trung Tông lên ngôi, phe cánh Trương Dịch Chi tất nhiên phải chịu hạch tội.
Đỗ Thẩm Ngôn bị lưu đày đến Phong Châu, Lĩnh Nam, sau 2 năm mới được cho về với con cháu. Cũng không hiểu sơn lam chướng khí phương Nam có ảnh hưởng đeo đẳng gì không mà đến đời Đỗ Phủ lại sống trong cảnh vô cùng nghèo túng, cơm chẳng đủ ăn, qua đời trong chiếc thuyền rách nát, khiến người ta không tránh khỏi đau xót.
4. Chử Toại Lương, thư pháp gia huyền thoại
Thê thảm nhất có lẽ là câu chuyện của Chử Toại Lương – nhà thư pháp trứ danh, tác giả bức Đệ nhất Hành thư chép lại “Lan Đình tập tự”. Đường Thái Tông yêu thích và sưu tầm các tác phẩm của Vương Hi Chi, Chử Toại Lương với trình độ thư pháp cao thâm, giúp việc cho nhà vua, khiến không ai dám đem tác phẩm giả đến lừa lĩnh thưởng. Ông cũng là người cương nghị chính trực, nên càng được Đường Thái Tông yêu quý, đến mức khi sắp qua đời, Thái Tông đã chọn ông và Trưởng Tôn Vô Kỵ là hai trọng thần để ủy thác việc nước. Chử Toại Lương nhờ cương trực mà được tin yêu, và cũng vì cương trực mà bị biếm trích.
Đường Cao Tông Lý Trị muốn phế Vương hoàng hậu để lập người chiêu nghi họ Võ (chính là Võ Tắc Thiên sau này), Chử Toại Lương năm lần bảy lượt đều không đồng ý, “phế Vương lập Võ” rõ ràng không phải điềm lành. Ông dập đầu khuyên can đến bật cả máu, khiến Đường Cao Tông phải xấu hổ đỏ mặt.
Tuy nhiên Cao Tông vẫn ôm giữ ý định, đi dò ý các đại thần, đến lúc Lý Tích (Từ Mậu Công) đáp rằng “Đấy là việc nhà bệ hạ, cớ gì phải hỏi người ngoài” thì vua như vớ được vàng, lập tức lập Võ thị làm hoàng hậu.
Võ hoàng hậu không quên thù với Chử Toại Lương, lần lượt lưu đày ông đến Quế Châu (nay là Quế Lâm, Quảng Tây), sau lại vu khống ông mưu phản, đày tiếp đến Ái Châu (nay là Thanh Hoá, Việt Nam). Chử Toại Lương qua đời trong cảnh lưu vong tha phương. Sau khi ông chết, Võ Tắc Thiên cũng chưa buông tha, mà tiếp tục đày người nhà của ông đến Ái Châu, lại giết hai người con trai của ông. Cả đời Chử Toại Lương cúc cung tận tụy, rốt cuộc lại chịu thảm cảnh, mãi đến hơn 40 năm sau, khi Võ Tắc Thiên sắp qua đời, mới được minh oan, trả lại danh tiết.
5. Nam bang độc lập là tất yếu
Qua cảnh thảm của các danh nhân bị lưu đày đến Giao Chỉ (An Nam), chúng ta thấy được điểm yếu lớn trong chính sách nhà Đường: Để cai trị vùng đất xa xôi, ắt phải vỗ về phủ dụ dân chúng, muốn làm vậy thì cần những quan chức lương thiện nho nhã. Đáng tiếc những người lương thiện nho nhã, thì hoặc là không nguyện ý đi, hai là không đủ sức khỏe để chịu đựng sự khắc nghiệt. Rốt cuộc nhà Đường thường phải dùng đến các quan chức võ biền, hung hãn, tham lam, điều này dẫn đến việc hoặc là dân chúng bất mãn nổi loạn, hoặc là những kẻ quan chức đó mang dã tâm cát cứ ly khai triều đình.
Thực tế đã cho thấy, dù là triều đại hùng mạnh bậc nhất, nhà Đường cũng chưa bao giờ bình định hoàn toàn được vùng đất phía Nam. Người Việt không ngừng tìm cách giành độc lập, có thể kể đến các dấu mốc nổi bật như khởi nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (687), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722), khởi nghĩa Phùng Hưng (766-791), khởi nghĩa Dương Thanh (819-820).
Và đến khi Khúc Thừa Dụ trở thành người bản địa đầu tiên làm Tiết độ sứ, thì sự độc lập của Nam bang đã trở thành Thiên mệnh không thể đảo ngược.
Nguồn: ntdvn (Hữu Đức)