Blog
Tại sao trận Xích Bích lại nhận được sự trợ giúp của gió Đông
Nhà thơ đời Đường Lý Bạch (701-762) đã viết trong bài thơ “Xích Bích ca tống biệt”. Miêu tả trận chiến giữa nhị long sủng khiến những con thuyền của Xích Bích bị cuốn trôi, trận “Chinh chiến” ly kỳ của Chu Du (175 -210), khi có sự hậu thuẫn của Tôn Quyền ở doanh trại phía đông nam, Chu Du đã dùng hỏa công đánh quân Tào Tháo, bối cảnh lịch sử này là trận then chốt lấy ít thắng nhiều . Từ đó tạo thành “Thế chân vạc” chia thiên hạ thành 3 nước Tào Ngụy – Thục Hán – Đông Ngô.
Thời điểm lúc bấy giờ là giữa mùa đông ở khu vực Giang Đông. Mùa đông không phải không thể có gió đông nam thổi, nhưng khi cuộc chạy đua với thời gian là bất định, theo như ghi chép trong sử sách “Giang Bưu Truyền” – Đúng lúc mọi thứ đã chuẩn bị sẵn sàng chỉ còn nợ gió đông thì “gió đông nam” thổi chính xác. Tận dụng xu hướng và tấn công ngọn lửa về phía Tào Quân. Chìa khóa để chiến thắng nằm ở cơn gió phải từ phía đông; Thật khó hiểu là làm thế nào mà hướng gió và thời gian có thể như đã được an bài từ trước?
“Tam Quốc Diễn Nghĩa” có ghi lại, khi Chu Du bị bệnh tim nằm liệt giường, thừa tướng nhà Thục Hán Gia Cát Khổng Minh (181-234) thấy chủ soái trước khi lâm trận lại bị lâm bệnh khiến tướng sĩ Đông Ngô lo lắng. Hay tin này, Gia Cát Lượng đang ở trong binh trại liên minh hỗ trợ bày mưu kế giúp Đông Ngô nên đã nói: “Bệnh của đô đốc tôi có thể trị được”.
Nói đoạn Gia Cát Lượng liền đến doanh đô đốc thăm Chu Du. Gia Cát Lượng nói: “Mấy ngày không gặp, không biết quý thể của đô đốc bất an”. Chu Du đáp: “Họa phúc của người chỉ trong sớm tối, ai có thể lường trước được!” Gia Cát Lượng nói: “Tôi xem chừng nguyên nhân là mây gió của trời đấy!”
Để có cuộc sống bình an và hút nhiều tài lộc, hãy tham khảo các vật phẩm phong thủy thủ công của Hòn Ngọc nhé!
Lẵng Tài Lộc Buôn May Bán Đắt
Tháp Tỏi Ngũ Hạt Hút Tài Lộc
Vòng Tỏi May Mắn Chiêu Tài Hút Lộc
Câu nói trúng tâm bệnh của Chu Du, Du hỏi: “Có cách gì hay không?”
Gia Cát Lượng đáp: “Bệnh phiền muộn của đô đốc, trước hết là do khí”. Gia Cát Lượng lấy giấy bút ghi ra mật thư 16 chữ, đưa cho Du, trong đó viết như sau:
“Dục phá Tào công
Thực dụng hỏa công
Vạn sự cụ bị
Chỉ khiếm đông phong.”
Tạm dịch là:
“Muốn đánh Tào công
Phải dùng hoả công
Muôn việc đủ cả
Chỉ thiếu gió đông”.
Chu Du thấy Gia Cát Lượng nhìn thấu được tâm sự của mình, kêu lên một tiếng, bệnh tình bay biến hết, vội xin Lượng chỉ giáo kế hay.
Khổng Minh nói: “Tôi tuy rằng bất tài, nhưng có gặp được một dị nhân truyền cho quyển ‘Kỳ môn độn giáp thiên thư’ có thể gọi được gió, bảo được mưa. Đô đốc muốn cần đến gió Đông nam, thì phải lập đàn tại núi Nam Bình, gọi là đàn Thất tinh, bề cao chín thước, chia làm ba tầng, dùng một trăm hai chục người cầm cờ đứng xung quanh. Tôi xin lên đàn, dùng phép, mượn gió Đông nam thật to, gió đủ ba ngày ba đêm để đô đốc dùng binh. Đô đốc nghĩ thế nào?
Chu Du nói: “Chẳng cần đến ba ngày ba đêm, chỉ một đêm gió to là xong việc. Nhưng xin tiên sinh phải làm ngay cho, chớ để chậm chạp”.
Khổng Minh nói: “Ngày 20 tháng 11 là ngày giáp tý, bắt đầu tế gió, đến ngày 22 là ngày bính dần thì gió im, có được không?”
Du nghe nói mừng lắm, đứng choàng dậy, ngay lập tức lệnh cho 500 quân sĩ cường tráng đến Nam Bình Sơn xây dựng đài, đồng thời cử 200 quân sĩ canh gác, chờ lệnh.
Đúng giờ cát thần ngày 20 tháng 11, Khổng Minh tắm rửa trai giới, khoác Đạo y, chân trần tiến đến trước đàn, căn dặn tướng sĩ canh giữ:
“Không được tự ý rời vị trí, không được nói lời thì thầm, không được thuận miệng nói chuyện làm xáo trộn, không được làm kinh động. Người nào trái lệnh, chém đầu!”
Sau khi mọi người nhận lệnh, Khổng Minh chậm rãi đăng đàn, xem được phương hướng liền đốt hương trong lư, rót nước vào trong bồn rồi ngửa mặt lên trời thầm khẩn cầu. Ngày hôm ấy, Khổng Minh lên xuống đàn ba lần nhưng cũng không thấy gió Đông nam thổi tới.
Chu Du lúc này đã cho gọi Trình Phổ, Lỗ Túc và các tướng chực sẵn dưới trướng, chỉ đợi có gió Đông nam là cất quân đi. Một mặt Du báo tin cho Tôn Quyền để tiếp ứng, một mặt lệnh cho Hoàng Cái đã chuẩn bị sẵn hai chục chiếc hoả thuyền, mũi thuyền cắm chông sắt, trong thuyền chứa đầy lau sậy và củi khô tẩm dầu mỡ, trên còn cho rắc lưu hoàng, diêm tiêu rồi dùng vải xanh che kín; Lại điều bốn đội thuyền đi theo Hoàng Cái để sẵn sàng tốc chiến: Đội nhất là Hàn Đương, đội nhì là Chu Thái, đội ba là Tưởng Khâm, đội tư là Trần Vũ.
Mỗi đội mang ba trăm chiếc chiến thuyền, hai chục chiếc hoả thuyền đi hàng đầu. Chu Du cùng với Trình Phổ ngồi trên chiếc thuyền to đốc chiến; Từ Thịnh, Đình Phụng làm tả hữu hộ vệ. Còn Lỗ Túc, Hám Trạch và bọn mưu sĩ ở nhà giữ trại. Trình Phổ thấy Chu Du có tài điều khiển quân sĩ rất lấy làm kính phục.
Vừa khi ấy Tôn Quyền sai sứ mang ấn tín đến báo cho Chu Du là đã cử Lục Tốn làm tiên phong, tiến thẳng ra Kỳ Hoàng, Ngô hầu tự đem quân làm tiếp ứng, chỉ đợi lệnh là sẵn sàng phối hợp tác chiến.
Sau khi đã cắt đặt đâu đấy vẹn toàn, Chu Du còn sai Lỗ Túc truyền báo cho quan quân, tướng sĩ: ai nấy đều phải thu xếp thuyền bè, khí giới cho đủ; khi nào có lệnh xuống là không được chậm chạp một phút nào, nếu ai lầm lỡ, lập tức chiếu quân pháp trị tội. Các tướng được lệnh ấy, ai nấy khoa chân múa tay, sẵn sàng chiến đấu.
Mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ, chu toàn cả, chỉ đợi có gió Đông nam là hành sự. Hôm ấy, trời gần tối, bầu trời sáng sủa, không phe phẩy một tí gió nào. Chu Du nói nghi ngờ với Lỗ Túc: – Khổng Minh nói sai rồi, trời đông tháng rét thế này, làm gì có được gió Đông nam?
Túc nói: – Tôi chắc Khổng Minh không phải là người nói bậy.
Gần đến canh ba, bỗng nhiên nghe thấy tiếng gió thổi, cờ quạt tung bay. Du ra trướng xem, thấy đuôi cờ bay về phía Tây bắc. Một lát, gió Đông nam nổi lên ầm ầm, Du giật mình nói: – Người này có phép đoạt được trời đất, có thuật tài hơn quỷ thần.
Tục ngữ có câu: “Tự trợ nhân trợ nhi hậu thiên trợ” (ý nói rằng: Tự giúp người, sau Trời giúp mình), trong ‘Dịch Kinh’ cũng có ghi chép lại: “Tự thiên hữu chi cát vô bất lợi”, điều giảng ở đây đều là để chỉ ‘dựng Đức tu thân’ thì cần thuận theo Thiên mệnh. Vậy thì không khó để lý giải từ “Phong” (gió) trên đất Trung Hoa, về vấn đề vì sao nó không chỉ là một lời giải thích đơn thuần về lưu lượng áp suất cao và thấp trong khí quyển, mà còn là chỉ sự biến hóa của thiên tượng, đảo ngược cục diện thắng bại trong lịch sử.
Từ Thanh biên dịch
Theo: Secrecchina