Blog
Thần tích nước Nam: Ngày xưa có anh Trương Chi…
Lời tựa:
Trong Sấm ký, bản quốc ngữ Hương Sơn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mở đầu bằng câu thơ: “Nước Nam thường có thánh tài” như một lời khẳng định nước Nam là một vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Thành ngữ Trung Hoa có câu “Sơn Tiên Thủy Long” tạm hiểu là: “núi không cần cao vẫn có tiên ở nên danh nổi, nước không vì sâu vẫn có rồng nằm nên hóa linh”, cũng có thể dùng để nói về nước Nam ta vậy.
Bởi thế, nội dung của loạt bài này sẽ là về những Thần tích nước Nam. Đây là những câu chuyện dẫu có lúc chẳng phải chính sử, mà dựa trên huyền sử, dã sử… vẫn bàng bạc sắc màu của văn hóa thần truyền. Dẫu là tác phẩm phóng tác, đôi lúc hư thực khó phân… vẫn thấm đượm tinh thần và hào khí nước Nam.
Đó vẫn là những tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt và nhân loại nói chung, mà chúng tôi muốn góp phần nhỏ bé để truyền tải và lưu giữ.
Để có cuộc sống bình an và hút nhiều tài lộc, hãy tham khảo các vật phẩm phong thủy thủ công của Hòn Ngọc nhé!
Lẵng Tài Lộc Buôn May Bán Đắt
Tháp Tỏi Ngũ Hạt Hút Tài Lộc
Vòng Tỏi May Mắn Chiêu Tài Hút Lộc
Thần tích nước Nam: Ngày xưa có anh Trương Chi…
Lời bạch: Câu chuyện phóng tác này có thể là một góc nhìn, một cách lý giải khác biệt so với quan niệm xưa nay về mối tình huyền thoại Trương Chi – Mỵ Nương trong văn hóa dân gian, hoặc có thể chỉ là mượn chuyện để chia sẻ chút suy ngẫm với đời.
Cô Mỵ Nương vốn ở lầu Tây, con quan thừa tướng ngày rày cấm cung
Chiều dần buông trên dòng sông Tiêu Tương xứ Kinh Bắc, thuyền chài đã ghé bến, ngư phủ lục tục lên bờ. Nhìn khoang thuyền gần như trống rỗng có thể hiểu được khuôn mặt đăm chiêu thất vọng và dáng đi lầm lũi của họ. Trên cánh đồng làng, nông dân đã thu xếp nông cụ, rồi í ới gọi nhau ra về. Lũ mục đồng cũng tranh thủ lùa trâu về chuồng trước khi tắt nắng. Năm nay đồng hạn, lúa kém dù sắp đến ngày thu hoạch, cỏ trâu ăn cũng thiếu.
Gần đó, trên ngọn đồi cách bờ sông một quãng không xa là phủ đệ nguy nga của quan thừa tướng. Trong phủ, hiện đã lên đèn, đang là giờ ăn chiều. Trong phòng ăn, có tiếng truyền lệnh oai nghiêm của một người đàn ông tuổi ngoại ngũ tuần tới người nữ tỳ trẻ đang khúm núm:
– Bao giờ cô ăn xong, ngươi đưa cô về buồng. Nếu cô muốn thắp đèn đọc sách hay viết chữ thì ngươi có thể hầu cô, nhưng nhớ nhắc cô không được thức khuya. Nghe không?
Đó là quan thừa tướng đương triều, người gốc Kinh Bắc. Còn cô gái được nhắc đến là người con gái duy nhất của ông, tên là Mỵ Nương. Mỵ Nương năm nay tuổi chừng quá đôi tám, đang chờ kén rể, nhan sắc tuyệt trần lại giỏi cả cầm kỳ thư họa, bẩm tính thanh cao. Nàng được quan thừa tướng yêu thương giữ gìn như báu vật.
Mỵ Nương đã từng có một người chị hơn nàng mấy tuổi, so bề tài sắc thì “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”. Nếu vùng Giang Nam thời Tam Quốc có chị em Đại Kiều, Tiểu Kiều nổi tiếng, là chính thất của Tôn Sách, Chu Du… thì hai chị em Mỵ Nương cũng được ví như Nhị Kiều của vùng Kinh Bắc. Quan thừa tướng không có con trai, nhưng hết sức tự hào về hai cô con gái này, định bụng sẽ kén cho mỗi nàng một chàng rể xứng đôi vừa lứa.
Chẳng may, chị gái Mỵ Nương trong một lần ra sông chơi, đã trượt chân ngã xuống nước chết đuối. Việc đã qua mấy năm nhưng quan thừa tướng vẫn vô cùng đau khổ, từ đó luôn để tâm o bế giám sát nghiêm ngặt đối với Mỵ Nương, ít nhất là cho đến khi nàng “xuất giá tòng phu”.
Mỵ Nương bản tính hiếu thảo, nàng thương cha già hết mực, nhưng thâm tâm không muốn lấy chồng, chỉ muốn sống một đời ung dung tiêu sái. Cái chết của người chị gái khiến nàng cảm thấy cuộc đời vô thường, nhân sinh như mộng, nên đã sớm có ý chí lánh đời thoát tục. Vả lại, hàng ngày mắt thấy những kẻ cầu cạnh cha nàng vào luồn ra cúi, không có lấy một chút khí cốt nam nhi khiến nàng càng thêm chán nản, cứ nghĩ đến sau này phải lấy một tấm chồng như thế, thà rằng ở vậy còn hơn.
Vì mẹ mất sớm nhưng cha già lại ở vậy nuôi con, phận làm con như nàng dĩ nhiên phải làm tròn đạo hiếu, song nàng vẫn muốn thoát khỏi cuộc sống tầm thường tẻ nhạt dù là nơi lầu son gác tía. Nhưng làm thế nào thì nàng vẫn chưa xác định được rõ ràng.
Những tiểu thư khuê các đồng trang lứa rõ ràng không có cái chí hướng như nàng, người ăn kẻ ở trong phủ càng không thể hiểu được tâm sự của nàng, còn với người cha già kính yêu thì nàng cũng không dám thổ lộ chí khí của mình, sợ cha đã buồn lòng lại càng buồn thêm. Có thể thấy Mỵ Nương vô cùng cô đơn. Nàng đành chỉ lấy thánh hiền xưa làm thầy, lấy sách vở, tiếng đàn, thơ, họa làm nơi gửi gắm tâm sự.
Song khoảng vài tháng gần đây, hình như có việc gì khiến nàng tươi tắn.
Mỵ Nương rời mâm cơm đứng dậy, khẽ nhún mình chào cha, quan thừa tướng gật đầu, đôi mắt dõi theo nàng đầy vẻ trìu mến, lại pha chút âu lo. Người nữ tỳ giơ tay đỡ nàng, rồi cả hai tiến về gian phòng của Mỵ Nương ở lầu gác phía Tây của phủ đệ, gọi là Lầu Tây. Nơi ấy có cửa sổ trông ra dòng sông Tiêu Tương thơ mộng.
Trương Chi mới hát một câu, gió đưa phảng phất tới lầu Mỵ Nương
Về đến phòng, Mỵ Nương sai tỳ nữ thắp đèn rồi đi mài mực để nàng tập viết chữ. Nhưng viết được một lúc thì nàng trở nên lơ đãng, dường như tâm trí của nàng không để ở con chữ nữa, mà đang mong ngóng điều gì. Rồi nàng buông bút, tiến lại gần cửa sổ nhìn ra ngoài.
Đã gần đến rằm Trung Thu, trăng đêm nay sáng lắm. Trăng lên cao, chiếu sáng vằng vặc cả cánh đồng làng sắp vào mùa gặt, cả dòng sông Tiêu Tương ngoài kia cũng bát ngát ánh trăng, gió thu se lạnh đưa đẩy sóng nước lăn tăn càng làm ánh trăng thêm huyền ảo lấp lánh.
Thân ở trong cảnh, Mỵ Nương lại nhớ đến ánh trăng của danh gia Tô Thức đời Bắc Tống:
Trăng quanh gác tía,
Cúi xuống cửa son,
Dòm kẻ thao thức,
Chẳng nên ân hận,
Sao cứ biệt ly thì trăng tròn?
Ðời người vui buồn ly hợp,
Trăng cũng đầy vơi mờ tỏ,
Xưa nay đâu có vạn toàn.
Chỉ nguyện đời ta trường cửu,
Bay ngàn dặm cùng với thuyền quyên. (*)
Bỗng ở nơi nào đó trên dòng sông, một âm giai trỗi lên, theo gió đưa đến cửa sổ Lầu Tây. Khuôn mặt Mỵ Nương đang có chút ưu tư bỗng trở nên rạng rỡ. Nàng khép hờ mi mắt mà dường như vẫn nhìn thấy ánh trăng đầm đìa, sóng nước mênh mang, cảm nhận gió thu se sắt, cây cối xào xạc, chim ca hoa nở, trời tuôn mưa ngọt, đất ngậm cam lồ, muôn dân lạc nghiệp thái bình âu ca… cả một vũ trụ bao la lồng lộng trong giọng ca ấy.
Tiếng hát ấy vô lo vô sầu, không sợ hãi cũng chẳng cuồng ngông, không truy cầu bon chen mà đầy vẻ ung dung tiêu sái; có lúc trầm xuống rền vang như tiếng kinh cầu của chư tăng vùng Luy Lâu cổ đại, có khi phóng khoáng vút lên như cánh chim Bằng vượt chín vạn dặm thẳm của Trang Chu… đây ắt phải là tiếng hát của kẻ sĩ coi thường danh lợi, không sợ quyền thế, thoát khỏi những níu kéo tầm thường vụn vặt của thế gian để đạt đến mức hòa làm một với vũ trụ vô biên vô tỷ.
Chẳng phải là lời trai gái tỏ tình, chỉ là một lời hát ngợi ca thiên nhiên tạo hóa, mà sao khiến Mỵ Nương ngất ngây một niềm vui khôn tả, như chạm đến nơi sâu thẳm của cõi tâm linh, như cánh chim được tháo cũi sổ lồng, trở về với vòm trời cao rộng. Từ ngưỡng mộ giọng hát, nàng trở nên cảm mến kính phục người hát, trong lúc bất tri bất giác, không biết đã đem lòng yêu ca sĩ, hay chỉ là sung sướng tìm thấy một tâm hồn tri kỷ, hoặc là một người thầy dẫn dắt tâm linh… bản thân nàng cũng không hiểu rõ.
Mỵ Nương lẩm nhẩm:
“Chỉ nguyện đời ta trường cửu
Bay ngàn dặm cùng với thuyền quyên”
Có tiếng thì thào của người tỳ nữ kéo Mỵ Nương về với thực tại:
– Thưa cô, con nghe nói đây là tiếng hát của một ngư dân làng bên. Anh này con của một nhà Nho nghèo, mất sớm. Anh ta hay chọn lúc tối trời để ra sông chài lưới. Mấy tháng nay anh ấy giăng lưới ở khúc sông này. Con nghe người ta gọi tên anh ấy là…
Mỵ Nương nhanh tay bịt miệng người tỳ nữ:
– Đừng! Em đừng nói thêm nữa. Cũng đừng kể với ai chuyện này.
Mỵ Nương tự giới hạn mình chỉ được biết đến thế mà thôi.
…
Đã mấy ngày qua, quan thừa tướng để ý thấy Mỵ Nương có vẻ bồn chồn lo lắng, ngài gặng hỏi thì nàng chỉ khẽ mỉm cười trấn an cha, hoặc kể một câu chuyện vui vui nào đấy. Cũng có khi nàng lấy xuống cây dao cầm, đàn một vài bản cho cha nghe. Nhưng rõ ràng những người tinh ý sẽ thấy nàng tâm không để trong khúc nhạc, mà dường như chỉ mong trời mau mau tối để quay về buồng.
Nhưng mấy ngày rồi, ngoài kia im ắng. Mỵ Nương thấy thấp thỏm, nàng cứ đứng chôn chân bên cửa sổ Lầu Tây, mắt ngó đăm đăm ra ngoài sông Tiêu Tương. Trăng trên cao vẫn sáng vằng vặc, mặt sông vẫn lăn tăn sóng gợn, gió vẫn thổi rì rào se sắt… chỉ có tiếng hát là đi đâu vắng.
Có những đêm nàng cứ thế ngủ gục bên cửa sổ, người nữ tỳ lúc ấy mới dám nhẹ nâng nàng đưa vào giường.
Rồi dần dần Mỵ Nương chỉ nằm trên giường, không muốn dậy nữa. Nàng trở bệnh thật rồi.
Quan thừa tướng vội cho mời các lương y đến xem mạch, bốc thuốc. Thuốc uống đã nhiều mà bệnh Mỵ Nương vẫn không thuyên giảm.
Mỵ Nương nghe hát thì thương, nhưng…
Quan thừa tướng đi đi lại lại, mặt mũi khó đăm đăm, ruột gan bối rối, ngài xao nhãng cả công vụ chỉ vì cô con gái đang ốm thập tử nhất sinh. Chợt một ý nghĩ lóe lên, ngài cho gọi người nữ tỳ của Mị Nương vào gạn hỏi, và rồi biết được khúc nôi của con gái mình.
Ngài sai lính hầu đi sang làng bên tìm bằng được Trương Chi đưa đến.
…
Trương Chi hơi hoảng khi có quan nha đến tìm, lại nói rằng đưa đến phủ thừa tướng để sai bảo. Anh chỉ là một người đánh cá nghèo, dẫu nghèo cũng luôn giữ mình trong sạch lương thiện, chẳng hại ai cũng chẳng cầu ai, thậm chí khi đánh cá cũng chọn lúc tối trời để khỏi phải kèn cựa với bạn chài… sao lại có thể kinh động đến phủ thừa tướng?
Dọc đường, người ta mới giải thích cho anh sự việc.
Và phủ thừa tướng uy nghi sừng sững kia rồi.
Quan thừa tướng thấy trước mắt mình một ngư dân thấp bé, quần áo sờn rách, dáng vẻ lam lũ, khuôn mặt ngay thẳng lương thiện nhưng mày rậm mũi tẹt, da thô răng xấu, đôi mắt sáng thông minh nhưng to như ốc nhồi… Bàng Thống thời Tam Quốc có xấu trai cũng đến thế mà thôi. Ngài cảm thấy khá thất vọng. Ngài yêu cầu Trương Chi đứng ngoài cửa Lầu Tây mà hát.
Trương Chi có giọng ca Trời cho, nhưng xưa nay anh chỉ hát chỗ vắng người, muốn hát thì hát, muốn nghỉ thì nghỉ. Ca hát đối với anh không phải vì mưu sinh, hay bất cứ mục đích nào khác, chỉ là lấy giọng ca để hòa điệu với thiên nhiên tươi đẹp, để thăng hoa tinh thần, vươn tới một cảnh giới khác. Đây là lần đầu tiên anh hát trước khán giả con người, dưới sự đề nghị của quyền uy.
Trương Chi cất giọng, nhưng hình như hôm nay giọng ca thiếu chất hào sảng phóng khoáng, mà có đôi phần sợ sệt mặc cảm. Chúng ta cũng có thể thông cảm với anh, một ngư dân nghèo lần đầu tiên được đặt chân đến chỗ giàu sang quyền quý.
Có tiếng người lao xao trong buồng khuê thiếu nữ. Rồi một cô nữ tỳ hấp tấp chạy ra khỏi buồng đến chỗ quan thừa tướng đang ngồi gần đó, bẩm rằng Mỵ Nương đã tỉnh lại, cho đòi Trương Chi vào trong buồng để được nghe hát cho rõ hơn.
Quan thừa tướng nín lặng, mày cau lại. Chẳng phải ngài lo lắng chuyện gì khác, vì để cứu tính mạng của Mỵ Nương lúc này, những câu nệ thế tục cũng đành tạm bỏ đi. Nhưng ngài chỉ e ngại rằng khi Mỵ Nương trông thấy Trương Chi thì… “thôi, dù sao còn nước còn tát” – ngài nghĩ vậy. Vậy là Trương Chi được đưa vào khuê phòng thiếu nữ để hát.
Nhưng vừa nhìn thấy Mỵ Nương, Trương Chi bỗng như choáng lên, tim đập thình thịch. Chao ôi! sao nàng đẹp đến thế, như tiên nữ giáng trần. Người ta thỉnh cầu Trương Chi hát lại khúc ca đêm ấy ngoài dòng Tiêu Tương mà chàng cứ ngẩn ngơ say đắm với dáng hình thiếu nữ. Rồi chàng cũng cất tiếng ca, không còn run rẩy như lúc ngoài cửa, nhưng thay vì chất tiêu sái phóng khoáng, lại tràn ngập nhu tình.
Mỵ Nương nghe thêm một lúc liền ngồi dậy, đã hoàn toàn tỉnh táo, nhưng khẽ thở dài. Rồi bất ngờ, nàng xua tay ra hiệu muốn được ở lại một mình. Chàng Trương Chi, vẫn còn ngẩn ngơ, bị nữ tỳ kéo ra ngoài. Quan thừa tướng ban thưởng cho chàng rất hậu rồi mời chàng về chốn cũ.
Còn lại một mình Mỵ Nương trong phòng trầm ngâm suy nghĩ. Chẳng biết nàng nghĩ gì mà bảo nữ tỳ ra đóng cửa sổ lại. Rồi ít ngày sau, nàng cũng chuyển ra khỏi Lầu Tây, đến ở một căn buồng khác trong dinh thự rộng rãi của cha mình.
Kiếp này đã dở dang nhau, thì xin kiếp khác duyên sau lại lành
Ra khỏi phủ thừa tướng, Trương Chi mới như hoàn hồn trở lại. “Hôm nay ta làm sao thế này?”, chàng nghĩ. “Ta đã nguyện sống một đời trong sạch không ràng không buộc, không mong không cầu, để một mai an nhiên về với núi sông cây cỏ. Cha ta lúc sinh thời đã dạy ta rằng, dù phú quý cũng không được phóng đãng, nghèo túng cũng không hèn hạ, uy vũ cũng không bị khuất phục… Sao hôm nay ta hoảng hốt trước uy quyền, nghiêng ngả trước sắc đẹp? Ta đâu biết nàng ra sao mà nảy sinh tình tứ. Mà tay ta đang cầm cái gì thế này?”
Chàng nhìn xuống những thỏi vàng bạc, vật quý đang cầm trên tay, cảm thấy tự khinh bỉ chính mình, bèn vứt thẳng xuống dòng nước Tiêu Tương đang cuồn cuộn chảy, rồi đi về nhà.
Nhưng dường như ái tình càng muốn quên lại càng nhớ, hình bóng Mỵ Nương không thể xóa mờ trong tâm khảm chàng. Trương Chi cố nhớ lại cuộc đời khi xưa, vô tư vô lự, vui vẻ biết bao nhiêu. Nhưng dù có cố gắng cách nào, chàng cũng không thoát khỏi ma tình ám ảnh. Chàng cũng không cất lên tiếng hát được nữa, dường như với khối tình bám víu, tiếng hát đã trở nên nặng nề. Tình yêu vô vọng làm chàng day dứt, lòng ân hận đã đánh mất bản tính an nhiên càng kéo chàng chìm xuống như con thuyền xưa đã chìm xuống đáy nước.
Trương Chi không còn đi đánh cá nữa. Có khi chàng ở lỳ trong nhà, suy nghĩ miên man, không thiết ăn uống, cứ thế mà tự đày ải. Hàng xóm có qua lại thăm hỏi nhưng chàng lắc đầu không nói, người ta lại tưởng chàng làm gì nên tội với nhà quan, nên càng xa lánh.
Rồi một ngày, Trương Chi chỉ còn thoi thóp thở, trước khi từ giã cõi đời, Trương Chi rán lấy hơi, cất lên tiếng hát cuối cùng:
“Kiếp này đã dở dang nhau
Thì xin kiếp khác, duyên sau lại lành”
Kiếp này chàng đã dở dang với ai? Duyên sau sẽ nối lại với cái gì? Với Mỵ Nương hay ý chí tiêu dao thoát tục, chẳng có ai ngoài Trương Chi hiểu rõ.
Hồn Trương Chi lìa khỏi xác, vẫn chưa siêu thoát được mà quanh quẩn ở khúc sông cũ, rồi nhập vào một cây gỗ quý bên sông.
Giải thoát
Có người lái buôn mua được cây gỗ quý ngoài sông bị đổ sau cơn bão, bèn đem dâng thừa tướng để lấy chỗ cậy nhờ. Quan thừa tướng cũng vui lòng nhận, ban thưởng cho người ấy, rồi cho đẽo gỗ thành bộ ấm chén, dùng khi pha trà đãi khách.
Mỵ Nương nghe nói cha có bộ ấm trà mới rất đẹp, không hiểu sao bỗng nhiên nổi cơn tò mò. Nàng đòi cha mang ra cho xem bằng được, rồi dùng thử. Chiều con, quan thừa tướng cũng sai pha một ấm trà để cha con cùng ngồi đối ẩm.
Ấm trà vừa rót nước vào chén, thì bất ngờ một hình ảnh hiện lên, hình ảnh chàng Trương Chi đang chèo thuyền chầm chậm xoay quanh lòng chén, rồi tiếng hát văng vẳng từ quá khứ hiện về, tiếng ca siêu thoát không đượm mùi tục lụy. Mỵ Nương giật mình, chợt hiểu ra mọi chuyện.
Ký ức cũ tràn về, Mỵ Nương nhớ lại khi ấy nàng có chút thất vọng lúc nhìn thấy diện mạo của Trương Chi. Nhưng nàng hiểu chỉ có tục nhân mới chấp vào diện mạo, biết bao nhiêu cao hiền, danh sĩ đời xưa “xú diện” mà “phương danh”, có chi là lạ. Có lẽ điều nàng thất vọng ở chỗ khác. Nàng từng mong chờ được gặp một kỳ nhân dị sĩ phong độ bất phàm, nhưng ngược lại chỉ thấy một anh chàng quê mùa e sợ quyền thế, quỵ lụy tình cảm. Sao gặp người mà chẳng bằng nghe tiếng? Nhưng phải chăng chính nàng đã chẳng suy nghĩ cho người?
Nàng tỉnh ngộ nghĩ thầm:
“Chao ôi! Giờ đây ta mới hiểu, lời ca tiếng hát cao thượng chẳng phải luôn luôn đồng nhất với con người, nhất là khi người với người va chạm. Đó là lý tưởng cần phải dày công tu dưỡng, khổ luyện mới đạt đến thời thời khắc khắc giữ được đạo tâm, đâu phải ngay lập tức có thể coi nhẹ mọi sự như phù vân, người cũng thế mà chính ta cũng vậy. Chính là lỗi của ta, chính ta đã hại chết một đời tiêu dao khoái hoạt của chàng. Xin chàng hãy tha lỗi cho ta, kiếp sau Mỵ Nương này xin được đền bồi”.
Mỵ Nương trào nước mắt, từng giọt, từng giọt như châu như ngọc thánh thót đầm đìa rơi xuống chén trà, khiến chiếc chén vỡ tan ra thành nước.
Hình như có bóng người đánh cá mỉm cười vái tạ, rồi mờ dần, mờ dần, và khuất hẳn.
Câu chuyện năm xưa vẫn làm bồi hồi đương thế
Theo nhà thơ Nguyễn Khôi (Khôi Đình Bảng), câu chuyện này gắn liền với sông Tiêu Tương ở quê nhà Quan Họ, Bắc Ninh. Cũng theo nhà thơ, Lầu Tây chính là đồi Hồng Vân (hay đồi Lim), là nơi “đến hẹn lại lên”, trai gái các làng lúc ra giêng thường về đây thi hát Quan Họ (còn gọi hội Lim) để tưởng nhớ mối tình “Trương Chi – Mỵ Nương” và để kết bạn tình. Tương truyền trai gái Quan Họ chỉ được yêu nhau chứ không được lấy nhau.
Còn trong các bài ca Quan họ có câu hát rằng:
Ngày xưa có anh Trương Chi
Người thì thậm xấu, hát thì thậm hay
Cô Mỵ nương vốn ở lầu tây
Con quan Thừa tướng ngày rày cấm cung
Trương Chi có chiếc thuyền chài
Chèo thuyền ngang dọc hôm mai dãi dầu
Trương Chi mới hát một câu
Gió đưa phảng phất tới lầu Mỵ Nương
Mỵ Nương nghe hát thì thương
Nhưng trông thấy mặt anh chường lại chê
Trương Chi buồn bã ra về
Cắm sào giữa bến hát thề một câu
Kiếp này đã dở dang nhau
Có sang kiếp khác lấy nhau cũng không thành.
Nguồn: ntdvn (Nguyên Phong)