Thi phẩm ‘Nam quốc sơn hà’ có phải đến để thức tỉnh chúng ta?
Thi phẩm “Nam Quốc Sơn Hà” viết gì mà uy phong như vậy? Thiết nghĩ, những tác phẩm văn học nghệ thuật được các thế hệ cha ông người Việt lưu truyền lại vốn mang chứa nội hàm văn hóa Thần truyền bác đại tinh thâm, chúng đều có linh tính. Vì vậy, việc tìm hiểu nội hàm của tác phẩm này cũng giúp chúng ta lý giải được thấu đáo hơn thông điệp mà các bậc tiền nhân muốn nhắn gửi cho hậu thế…
Trong lịch sử văn hóa dân tộc Việt, có một bài thơ mà người dân nước Nam không ai không biết, không ai không thuộc, đó chính là “Nam quốc sơn hà”.
Bài thơ được một số tài liệu cho là sáng tác của vị dũng tướng Lý Thường Kiệt, theo đó, trong Trận Như Nguyệt chống quân Tống xâm lược lần thứ hai (1075-1077), Lý Thường Kiệt đã cho người tâm phúc đọc vang bài thơ trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát thuộc địa phận bến sông Như Nguyệt, Yên Phong, Bắc Ninh, để khích lệ tinh thần quân sĩ Đại Việt và làm tiêu tan dũng khí của quân xâm lược, từ đó giành thắng lợi. Nguyên tác thi phẩm như sau:
Bài thơ viết gì mà uy phong như vậy? Thiết nghĩ, những di sản được các thế hệ cha ông lưu truyền lại vốn mang chứa nội hàm văn hóa Thần truyền bác đại tinh thâm, chúng đều có linh tính, vì vậy, việc tìm hiểu nội hàm của bài thơ cũng giúp chúng ta lý giải được thấu đáo hơn những thông điệp mà các bậc tiền nhân muốn nhắn gửi cho hậu thế.
Có một số Hán tự trong bài thơ cần hiểu sát nghĩa, đó là chữ 逆虜 (Hán Việt đọc là ‘nghịch lỗ’); trong đó: chữ nghịch (逆) có nghĩa là đối nghịch, phản lại; chữ lỗ 虜 có nghĩa là giặc, tặc. Vậy “nghịch lỗ” 逆虜 hiểu sát là “nghịch tặc”.
Chữ “nhữ đẳng” 汝等 có nghĩa là tụi bay, chúng bay; “hành khán” 行看 nghĩa là tất thấy, khẳng định sự tất yếu; “thủ bại hư” 取敗虛 – thủ là chuốc lấy, bại là thua bại, hư (trong hư không) là tiêu tán, tiêu vong; vậy “thủ bại hư” có nghĩa là chuốc lấy bại vong.
Khi được dịch sát nghĩa, bạn sẽ cảm nhận được từ thi phẩm một khẩu khí vô cùng uy phong lẫm liệt – thể hiện cái uy của một vị Thần vĩ đại giương cao chính nghĩa trong Sách Trời, khẳng định Thiên lý, với câu kết chắc nịch báo trước sự bại vong của kẻ xâm lược:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư” thường được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của người Việt, khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm và tuyên chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ bờ cõi. Hôm nay, người viết xin đứng trên phương diện tư tưởng và tâm linh để bàn về nội hàm thâm khắc hơn của thi phẩm mà dường như trước đây chưa được xem xét đầy đủ. Đó là gì?
Hai câu thơ đầu “Nam quốc sơn hà Nam đế cư; Tiệt nhiên phân định tại Thiên Thư” đã tuyên khắc chính tín đối Thần không thể lay chuyển của ông cha, và sự ỷ thác vào ý chí của Thần linh trong việc bảo hộ chủ quyền nước Nam. Chủ quyền này không chỉ bao hàm lãnh thổ.
Điều gì thực sự làm nên một dân tộc? Cũng giống như linh hồn tạo nên một con người, truyền thống và di sản văn hóa của bốn ngàn năm văn hiến chính là thứ tạo nên hồn thiêng của dân tộc Việt, thứ mà dù trải qua bao đổi thay của thời thế, nó vẫn được nuôi dưỡng trong long mạch của non sông gấm vóc, và âm ỉ chảy trong huyết quản của mỗi con dân Việt.
Truyền thống và di sản văn hóa ấy của ông cha được xây dựng trên nền tảng đạo đức truyền thống của người Á Đông, thấm nhuần tư tưởng đạo lý của Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Tư tưởng của ba gia phái lớn này tương giao xuyên suốt hàng nghìn năm qua, giáo dục con người tín ngưỡng Phật Đạo Thần, kính Thiên trọng Địa, thuận theo tự nhiên, tu dưỡng đạo đức, tuyên dương những giá trị Trung, Hiếu, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín… mang chứa những nội hàm của văn hóa Thần truyền.
Trên nền tảng tín ngưỡng và đạo đức đó, người Việt với lớp lớp tinh anh văn hóa và anh hùng hào kiệt đã xây dựng nên một lịch sử hào hùng với nội hàm văn hóa truyền thống đặc sắc riêng có của mình, rồi thông qua những câu chuyện cổ, những điển tích, sử sách, văn học, nghệ thuật… mà lưu truyền trong dân gian.
Hệ thống khoa cử của triều đình xưa lựa chọn nhân tài ra làm quan giúp dân giúp nước cũng thiết lập trên cơ sở thông thuộc lịch sử cổ kim và minh tuệ đạo lý tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ… Chính là thông qua những cách đó mà văn hóa truyền thống được phát huy và bảo tồn qua lớp lớp thế hệ.
Hai câu thơ đầu khẳng định chủ quyền nước Nam đã được Thượng Đế phân định tại Thiên Thư (Sách Trời). Sự bảo chứng này không chỉ đối với lãnh thổ trên thực địa, mà bao hàm tất cả những di sản vật thể và phi vật thể gồm tri thức, văn hóa, tín ngưỡng và lịch sử… mà từ xa xưa mà ông cha truyền lại.
Vị “Nam Đế” trong bài thơ có hàm ý là vị chủ nhân của nước Nam – có thể nói chính là linh hồn của dân tộc, là hồn thiêng trị vì non sông gấm vóc này, ngự trị trong tâm hồn và làm nên giá trị thực sự của người Việt như một chủ thể đóng góp vào nền văn minh nhân loại.
Câu thơ thứ ba: “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm”, đề cập đến sự xâm phạm của “nghịch tặc” – “nghịch tặc” ở đây không hề đóng khung trong nghĩa là “quân địch” bằng xương bằng thịt, mà xét trên phương diện tư tưởng, những thư tư tưởng ngoại lai phản tín ngưỡng, phản đạo đức và phản văn hóa truyền thống của dân tộc cũng chính là thứ “nghịch tặc”.
Liên hệ với giai đoạn lịch sử cận đại, đặc biệt là từ thế kỷ 19, cùng với việc các đế chế thực dân phương Tây mở rộng tìm kiếm thuộc địa, nhiều tư tưởng ngoại lai cũng ồ ạt xâm nhập vào đất Việt, tạo nên một thách thức văn hóa chưa từng có trong lịch sử.
Trong xu thế của thời đại, với mong muốn hiện đại hóa, trên nền tảng bảo tồn văn hóa truyền thống, ông cha ta cũng dần dần tiếp thu một bộ phận tri thức của phương Tây, và đón nhận tín ngưỡng Công giáo với những giá trị đạo đức phổ quát vốn không xung đột với văn hóa phương Đông.
Tuy nhiên, bắt đầu vào thế kỷ 20, từ khi Cách mạng tháng 10 Nga thành công, trào lưu tư tưởng cực tả của phương Tây cũng được quảng bá rộng rãi ra thế giới, những thứ như: thuyết tiến hóa, thuyết vô thần, chủ nghĩa duy vật, triết học đấu tranh giai cấp, giải phóng tư tưởng, giải phóng tình dục, bình đẳng giới v.v.. – những tư tưởng ‘cấp tiến’ này hoàn toàn đi ngược lại chính tín và niềm tin cố hữu của dân tộc.
Mặc dù vậy, ở các nước thuộc địa, những tư tưởng này được núp dưới danh nghĩa “giải phóng thuộc địa”, “phá bỏ xiềng xích nô lệ”, “xây dựng thế giới đại đồng”, “phá tứ cựu, lập tứ tân” (phá trừ cựu tư tưởng, cựu văn hóa, cựu phong tục, cựu tập quán, là khẩu hiệu của cuộc cách mạng văn hóa)… đã mê hoặc không ít trí thức phương Đông đang tìm kiếm con đường giải phóng dân tộc khỏi ngoại bang, nóng vội tiếp thu và mang về truyền bá.
Giờ đây, lịch sử đã trải qua hơn trăm năm, chúng ta có thể công tâm kiểm chứng lại những hậu quả mà những tư tưởng cấp tiến này gây ra trên bức tranh tổng thể của thế giới từ thế kỷ 20 cho tới nay, từ những kinh nghiệm đau thương của nước Nga, đến sự suy đồi mọi mặt của xã hội Trung Quốc, và cả những kinh nghiệm xương máu của chính chúng ta – để thấy rằng, không thể mang những tư tưởng vốn dĩ là ngoại lai cưỡng áp cho người Việt – điều đó chẳng khác gì khiến con cháu chúng ta mất gốc văn hóa trên quê hương của chính mình.
Câu thơ cuối: “Nhữ đẳng hành khán thủ bại hư – Chúng bay ắt chuốc lấy bại vong!” có thể nói, khẳng khái như một lời sấm truyền, rằng dù có ngạo nghễ đến đâu, thì kết cục, những tư tưởng ngoại lai “nghịch tặc” không được Thần công nhận và bảo hộ, sẽ vĩnh viễn chuốc lấy kết cục bại vong – điều mà lịch sử đã chứng minh.
Là con dân của nước Việt, không ai không tự hào về ‘Nam quốc sơn hà Nam đế cư’, bởi dòng máu anh hùng của Nam Đế, của linh hồn Việt với những giá trị văn hóa truyền thống vẫn đang âm thầm chảy trong huyết quản của mỗi chúng ta.
Chỉ là, chúng ta có sẵn sàng từ bỏ những tư tưởng sai lầm để hồi quy về truyền thống thiện lương bốn ngàn năm văn hiến của ông cha hay không. Nhìn sang những nước láng giềng phồn vinh có nền tảng văn hóa gần gũi với chúng ta như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, v.v… nơi vẫn kế thừa và gìn giữ bảo lưu giá trị truyền thống của dân tộc mình khi hội nhập với phương Tây – từ đó có thể nhận ra, giá trị văn hóa truyền thống hoàn toàn không phải là thứ ‘cổ hủ, lạc hậu, phản khoa học, cản trở phát triển’ như người ta vẫn lầm tưởng trong khi bị tư tưởng cực tả vô thần thống trị.
Trở về với tín ngưỡng chân chính đối Thần, tín Thần kính Thiên, phát huy giá trị đạo đức và kế thừa văn hóa truyền thống, âu cũng chính là con đường phục hưng của một dân tộc vậy.
Nguyệt Hòa
Theo dkn