Tống Huy Tông nghe gian thần hãm hại đội quân Lương Sơn Bạc, cuối cùng chết thảm bị đem đốt thành đuốc!

untitled-1-84-1

Với nhiều thế hệ độc giả Thủy Hử, nhân vật Hoàng đế nhà Bắc Tống – trong danh tác của Thi Nại Am có lẽ là một trong những nhân vật đáng giận nhất. Bởi nếu ông thực sự là một đấng minh quân, thì kết cục của 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc đã không bi đát đến vậy.

Trong Thuỷ Hử, Thi Nại Am không nêu rõ kết cục sau này của vị Hoàng đế này ra sao. Tuy nhiên, lịch sử lại ghi chép tường tận về số phận của nhân vật này, làm bài học cho hậu thế.

Nhân vật Hoàng đế trong Thủy Hử

Nhân vật “Thiên tử” được nhắc tới nhiều trong 50 hồi sau của Thủy Hử (phần Tục Thủy Hử) qua nỗ lực được triều đình chiêu an của Tống Giang, ở cuộc hội ngộ với Yến Thanh ở nhà của Lý Sư Sư; các quyết định dung nạp nghĩa quân Lương Sơn; chuyện truyền lệnh đánh Liêu, dẹp Điền Hổ, Vương Khánh, bình Phương Lạp…

Thiên tử” của Thủy Hử hiện lên với hình ảnh là một vị Hoàng đế có Tâm nhưng không có Tầm. “Thiên tử” ấy cũng có những cảm xúc, suy tư nhân tình thế thái nhưng lại thiếu hoàn toàn các quyết sách, hành động để làm vững mạnh triều cương, vì dân vì nước. Đúng như lời Lý Sư Sư từng nói: “Bệ hạ tuy là đấng thánh minh, ở ngôi cửu trùng nhưng bị bọn gian thần rào đường rấp lối, ngăn cản người hiền, biết làm sao được?”.

Để có cuộc sống bình an và hút nhiều tài lộc, hãy tham khảo các vật phẩm phong thủy thủ công của Hòn Ngọc nhé!

 Nhiều anh hùng Lương Sơn Bạc phải chịu kết cục đau đớn vì bị gian thần hãm hại, gián tiếp xuất phát từ sự nhu nhược, u mê của Hoàng đế (Poster phim Thuỷ Hử 1998). Nhiều anh hùng Lương Sơn Bạc phải chịu kết cục đau đớn vì bị gian thần hãm hại, gián tiếp xuất phát từ sự nhu nhược, u mê của Hoàng đế (Poster phim Thuỷ Hử 1998).
Nhiều anh hùng Lương Sơn Bạc phải chịu kết cục đau đớn vì bị gian thần hãm hại, gián tiếp xuất phát từ sự nhu nhược, u mê của Hoàng đế (Poster phim Thuỷ Hử 1998).

Trước kết cục của những hảo hán Lương Sơn sống sót trở về sau trận chiến Phương Lạp, nhậm chức làm quan rồi bị bè lũ gian thần (Sái Kinh, Đồng Quán, Dương Tiễn, Cao Cầu) lập mưu hại chết, rõ ràng “Thiên tử” phải chịu trách nhiệm không nhỏ. Một vị vua mà sau khi được Tống Giang báo mộng về cái chết oan khuất của mình cũng như các huynh đệ hảo hán khác chỉ biết “buồn rầu thương xót khôn nguôi”.

Lời nói cuối cùng của “Thiên tử” trong danh tác Thủy Hử của Thi Nại Am là câu quát mắng bọn “Tứ đại ác nhân” đứng sau cái chết của Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa: “Các ngươi là gian thần hại nước, làm hư nát cả thiên hạ của trẫm!”. Nhưng sau đó thì sao? “Hoàng đế bị bốn tên gian thần quanh co che giấu nên không bắt tội được chúng, chỉ quát đuổi bọn Cao Cầu, Dương Tiễn ra ngoài”.

Tống Huy Tông trong lịch sử

Với những chi tiết và nhân vật lịch sử được Thi Nại Am nhắc tới, thì “Thiên tử” của Thủy Hử chính là Tống Huy Tông, Hoàng đế thứ 8 của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Huy Tông, tên thật Triệu Cát, trị vì từ năm 1100 đến năm 1126 thì nhường ngôi, trở thành Thái thượng hoàng. Sử gia nổi tiếng thời nhà Nguyên – Thoát Thoát bình luận về Huy Tông thế này: “Tống Huy Tông mọi sự đều có khả năng, chỉ riêng việc làm vua thì vô năng”.

Tống Huy Tông là một Hoàng đế có tài năng xuất chúng về nghệ thuật. Trong ảnh là bức thư hoạ “Thính cầm đồ” (聽琴圖) của Tống Huy Tông. Ảnh: Wikipedia.Tống Huy Tông là một Hoàng đế có tài năng xuất chúng về nghệ thuật. Trong ảnh là bức thư hoạ “Thính cầm đồ” (聽琴圖) của Tống Huy Tông. Ảnh: Wikipedia.
Tống Huy Tông là một Hoàng đế có tài năng xuất chúng về nghệ thuật. Trong ảnh là bức thư hoạ “Thính cầm đồ” (聽琴圖) của Tống Huy Tông. Ảnh: Wikipedia.

Đó là một bình luận tuy ngắn gọn nhưng hoàn toàn chính xác về Huy Tông: một Hoàng đế có tài năng xuất chúng về nghệ thuật nhưng về mặt chính trị lại u mê, trọng dụng gian thần, chỉ thích hưởng lạc, tiêu pha vô độ, khiến triều đình hủ bại, lòng dân oán thán.

Thời gian trị vì của Huy Tông gắn liền với rất nhiều quyết định thiếu chính xác. Huy Tông sinh hoạt xa xỉ, dùng nhọc sức triều đình để thỏa mãn những nhu cầu của mình. Huy Tông bỏ trung dùng gian, để cho tham quan lộng hành dẫn tới khởi nghĩa nông dân trong nước suốt mười mấy năm, khiến triều cương bị lũng đoạn, đất nước rối ren và suy yếu. Sự kết thúc thời kỳ trị vì của Huy Tông, quanh sự kiện Tĩnh Khang, đánh dấu một giai đoạn đầy thảm họa cho nhà Tống.

Phong trào Diệt Phật

Một trong những chính sách sai lầm cũng như tội ác lớn nhất của Tống Huy Tông chính là phá hoại và tiêu diệt Phật giáo. Tống Huy Tông tôn sùng Đạo giáo, cũng cho xây mấy đạo quán, nhưng lại xem thường chính sách Phật giáo. Sau mấy năm đăng ngôi hoàng đế, vào năm Tuyên Hòa 1119, Huy Tông lấy danh nghĩa cải cách Phật giáo rồi biến tướng thành bức hại.

Cụ thể, ông ta dùng các danh hiệu trong Đạo giáo mà gọi thay cho các danh hiệu trong Phật giáo, như gọi Phật là Đại Giác Kim Tiên, gọi Bồ Tát là Đại sỹ, tăng là Đức sỹ, ni là nữ Đức sỹ… ngoài ra còn bãi bỏ các giới luật như cạo tóc đi tu. Các tăng ni bị bắt phải học kinh sách của Đạo giáo. Ngoài ra, những nhà sư đã tinh thông kinh sách Đạo giáo còn được đãi ngộ như quan viên trong triều.

Không giống như một số hoàng đế như Chu Vũ Đế của triều đại Bắc Chu công khai đàn áp Phật giáo và phá hủy đền chùa, những gì Huy Tông làm là khó nhận biết và cực kỳ ác độc, lấy áp lực bên ngoài, lấy danh lợi mà mê hoặc các nhân sỹ trong Phật giáo, còn làm hỗn tạp Phật giáo và Đạo giáo, từ đó làm biến tướng và hủy diệt Phật giáo.

Đây là vấn đề nghiêm trọng bởi người chân chính tu luyện đều hiểu rằng tu luyện phải chuyên nhất; dù là Phật giáo hay Đạo giáo đều không được trộn lẫn mà tu. Bức bách, mê hoặc người tu luyện Phật giáo hỗn tạp với những điều của Đạo giáo, thực chất chính là phá hoại việc tu hành của họ.

Những nhà sư chân tu đương nhiên không đồng ý. Một nhóm tăng nhân đề xuất biện luận về chiếu cải cách Phật giáo của Tống Huy Tông, kết quả là bảy vị tăng nhân, đứng đầu là Đại sư Nhật Hoa Nghiêm và Minh Giác, đã bị đánh bằng trượng, bị chôn sống đến chết. Đại sư Vĩnh Đạo bị đày đến Đạo Châu (thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay). Một số nhà sư vì sợ hãi mà bề ngoài đã phụng chỉ, công khai tán thành tội loạn pháp của Tống Huy Tông.

Một kết cục bi thảm

Không lâu sau khi Tống Huy Tông ra lệnh diệt Phật, bao nhiêu thảm họa lớn đã xảy ra và triều đại Bắc Tống đã kết thúc thảm hại. Năm 1126, quân Kim ở phía Bắc xâm lược và chiếm được kinh thành Biện Kinh (nay thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam).

Không chỉ Tống Huy Tông cùng con trai của ông ta là Khâm Tông, mà rất nhiều người trong hoàng thất – tổng cộng hơn vạn người, đa số là nữ – đều bị quân Kim bắt làm nô lệ, có người còn bị ép làm kỹ nữ. Một con trai khác của Tống Huy Tông là Cao Tông đã chạy đến Lâm An (thuộc Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang ngày nay) và thành lập triều đại Nam Tống. Thảm họa này được gọi là loạn Tĩnh Khang.

Sau khi bị bắt, Tống Huy Tông và con trai Khâm Tông bị giam giữ tại thành Ngũ Quốc (nay thuộc huyện Y Lan, tỉnh Hắc Long Giang), ông ta bị dằn vặt tinh thần, đã viết lại rất nhiều bài thơ thể hiện sự hối hận, ai oán, thê lương.

Thế nhưng, sự hối hận đó chỉ là để đổ lỗi cho quan viên trong triều về sự ô nhục này, nói rằng “xã tắc sơn hà đều vì đại thần kém cỏi”, mà không nhận ra bản thân vì tội khinh nhờn Phật Đạo Thần, hãm hại Phật giáo, làm xằng bậy mà đưa đến kết quả này.

Có lần, cha con Tống Huy Tông gặp một ông lão đến từ thành Biện Kinh. Hồi tưởng lại chuyện cũ, ba người họ ôm nhau khóc rống, bị thống lĩnh quân Kim nhìn thấy, ra lệnh cho quân lính quật cho hai cha con mỗi người 50 roi. Đêm đó, Tống Huy Tông cắt quần áo thành dải, làm dây chuẩn bị tự sát. Khâm Tông thấy thế, bèn lao ra đỡ cha từ xà nhà xuống, xong hai cha con lại ôm nhau mà khóc.

Để sống sót qua mùa đông giá buốt ở phương Bắc, hai cha con Tống Huy Tông phải chui vào hầm sâu mấy thước mà sống. Cuối cùng, tóc của ông bị rụng hết, tai điếc, mắt mờ, khóc không ra nước mắt. Chín năm sau, ông chết ở tuổi 52.

Khi Khâm Tông phát hiện ra thi thể của cha mình, nó đã lạnh cứng như đá. Quân Kim đem thi thể Tống Huy Tông dựng vào hố đá mà thiêu. Được nửa chừng, họ đổ nước vào hố để dập lửa, rồi đưa thi thể cháy dở vào cái hố khác chứa đầy nước. Họ cho rằng nước ngâm xác chết cháy có thể dùng để chế dầu đốt đèn. Quá đau buồn, Khâm Tông cũng định nhảy xuống hố nước để tự kết liễu đời mình. Quân Kim đã ngăn lại, nói rằng người sống nhảy xuống nước thì không dùng làm dầu đốt đèn được.

Lịch sử Trung Quốc có nhiều quan lại và hoàng đế hủ bại, nhưng rất ít người gặp phải số phận bi thảm như Huy Tông. Song không có gì quá ngạc nhiên, vì đàn áp tôn giáo là một trong những tội ác lớn nhất và Huy Tông đã cố ý tiêu diệt Phật giáo ở Trung Quốc.

Nguyệt Hòa
Theo DKN

Xem thêm
Chia sẻ bài viết: