Triều đại nào ở nước Việt có 2 vua chung 1 ngai vàng? Chính sự rối ren, triều đại tồn tại được vài năm
Hai vị vua cùng ngồi chung một ngai vàng trị vì đất nước là câu chuyện đặc biệt của lịch sử phong kiến Việt Nam. Đó là 2 vị quân vương Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập của triều Ngô.
Nhà Ngô (939-965) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam. Sau khi vua Ngô Quyền qua đời, giai đoạn từ năm 951-954, ông di chúc cho Dương Tam Kha phò tá con của mình là Ngô Xương Ngập. Ông không có miếu hiệu và thụy hiệu, sử sách xưa nay chỉ gọi ông là Tiền Ngô Vương.
Nhưng Dương Tam Kha cướp ngôi Ngô Xương Ngập, tự lập mình làm vua, xưng Dương Bình Vương.
Ngô Xương Ngập chạy về nhà một hào trưởng là Phạm Chiêm (Phạm Lệnh Công) ở làng Trà Hương, Nam Sách, Hải Dương. Phạm Lệnh Công che chở cho Ngô Xương Ngập, đã ba lần đưa Ngô Xương Ngập vào rừng núi Hun Sơn đào mà trú ẩn, Dương Tam Kha ba lần sai quân đi bắt Ngô Xương Ngập mà không được. Ở đó Ngô Xương Ngập lấy vợ và sinh con là Ngô Xương Xí.
Dương Tam Kha lấy Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền làm con nuôi. Từ khi Dương Tam Kha lấy ngôi của nhà Ngô, nhiều nơi không chịu thuần phục, các thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng thường đem quân đánh chiếm lẫn nhau.
Năm Canh Tuất (950), Tam Kha sai Xương Văn cùng hai tướng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem quân đi đánh hai thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình. Ngô Xương Văn đi đến nửa đường, dụ hai tướng quay lại lật đổ Dương Tam Kha.
Trích Đại Việt sử ký toàn thư:
Năm 950, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn cùng hai tướng họ Dương và họ Đỗ đem quân đi đánh hai làng là Đường và Nguyễn ở Thái Bình. Khi quân đến Từ Liêm, Ngô Xương Văn nói với hai tướng rằng:
– Đức lớn của Tiên Vương ta đã thấm vào tận lòng dân, cho nên, chính lệnh ban ra, không ai là không thuận nghe theo. Nay, không may Tiên Vương đã lìa bỏ quần thần, Bình Vương (chỉ Dương Tam Kha) làm việc bất nghĩa, cướp ngôi của anh ta, tội thật không có gì lớn bằng. Giờ đây, Bình Vương lại sai chúng ta đi đánh hai làng vô tội. Nếu may mà thắng được thì chẳng nói làm gì, còn như họ không chịu hàng phục thì ta biết làm sao được?
Hai tướng cùng nói:
– Chúng tôi xin theo lệnh của ông.
Ngô Xương Văn lại nói:
– Ta muốn đem quân quay lại đánh úp Bình Vương để khôi phục cơ nghiệp của Tiên Vương ta, như thế có nên chăng?
Hai tướng cùng cho là hay, bèn quay về đánh úp Dương Tam Kha. Mọi người muốn giết Dương Tam Kha đi, nhưng Ngô Xương Văn nói:
– Bình Vương đối với ta có ơn (chỉ việc Dương Tam Kha đã nhận Ngô Xương Văn làm con nuôi), tại sao lại nỡ giết?
Nói rồi, bèn giáng Dương Tam Kha làm Chương Dương Công, ban cho đất làm thực ấp (nay là bến Chương Dương).
Năm 950, Ngô Xương Văn tự xưng làm Nam Tấn Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Ngô Xương Văn cho người đón anh trai Ngô Xương Ngập về.
Được Dương thái hậu chuẩn tấu, Ngô Xương Ngập cũng làm vua, là Thiên Sách Vương năm 951. Lúc đó tồn tại hai vua Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương. Sử gọi là Hậu Ngô Vương.
Ngô Xương Ngập sau này chuyên quyền, không cho Ngô Xương Văn tham gia chính sự. Ngô Xương Ngập còn định trừ Ngô Xương Văn để một mình làm vua, nhưng năm 954, Ngô Xương Ngập lâm bệnh qua đời, làm vua được 4 năm.
Từ năm 951 đến 956, lần lượt các thế lực họ Đinh, họ Dương và hoàng tộc nhà Ngô cát cứ, chống đối với triều đình Cổ Loa, mở đầu cho loạn 12 sứ quân.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên viết:
“Nam Tấn đón Xương Ngập về để cùng trông coi chính sự, có thể gọi là người biết kính anh, muốn cho cùng hưởng phú quý. Xương Ngập nên lấy sự mình không có công lao mà nhường ngôi cho em, để cùng hưởng lập, thì đức ấy há chẳng rạng rỡ lớn lao ư? Lại câu nệ về phận đích trưởng, cũng xưng vương, trông coi chính sự, lại chuyên quyền làm oai làm phúc, đến nỗi Nam Tấn Vương không được dự chính sự nữa, thật là mất đạo nghĩa anh em, chí thú rất là ti tiện.”
Hai con của ông Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập cùng làm vua nước Việt. Về sau, 2 anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ cùng trị vì đất nước nhưng đó là 2 triều đại khác nhau.
Sau hơn nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, năm 905, hào trưởng đất Hồng Châu là Khúc Thừa Dụ nổi lên giành chính quyền, tự xưng làm Tiết độ sứ An Nam, buộc nhà Đường phải công nhận, từng bước xác lập quyền tự chủ cho dân tộc ta.
Tồn tại từ 939-965, nhà Ngô ở nước ta trải qua 4 đời vua, gồm: Ngô Quyền (Tiền Ngô Vương), Ngô Xương Văn, Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Xí. Đến năm 966, 12 sứ quân xuất hiện (loạn 12 sứ quân). Sau khi đánh tan quân Nam Hán (938), Ngô Quyền xưng vương vào mùa xuân năm Kỷ Hợi (939). Vua chọn vùng đất Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay làm nơi định đô.
Làng cổ Đường Lâm ở thị xã Sơn Tây (Hà Nội) là quê hương của vua Ngô Quyền. Ngôi làng này còn có biệt danh “đất hai vua”, đã sinh ra vua Ngô Quyền và vua Phùng Hưng.
Ngô Quyền (897-944) sinh ra trong dòng họ hào trưởng của đất Đường Lâm. Ông được Dương Đình Nghệ gả con gái. Sau này, Dương Đình Nghệ bị thuộc tướng là Kiều Công Tiễn hại chết, Ngô Quyền kéo quân từ Hoa Lư ra báo thù cho bố vợ. Kiều Công Tiễn hoảng sợ đã cầu cứu nhà Nam Hán sang xâm lược nước ta.
Theo lời cầu cứu của Kiều Công Tiễn, cuối đông năm 938, vua Nam Hán phái con trai là Lưu Hoằng Tháo mang 200.000 quân sang xâm lược nước ta. Ngô Quyền nhận định “Hoằng Tháo chỉ là đứa trẻ dại”, khó địch với quân ta. Cuối cùng, khi đến sông Bạch Đằng, đội quân xâm lược này bị đánh bại hoàn toàn.
Năm 944, Ngô Quyền ốm nặng. Trước khi qua đời, ông để lại di chúc nhờ em vợ là Dương Tam Kha phò tá cho con. Dương Tam Kha làm trái di chiếu, cướp ngôi nhà Ngô, xây dựng triều đại riêng, khiến đất nước từng bước loạn lạc.
Nguyệt Hòa biên tập
Theo yeuquehuong