Tu luyện một đời không chính quả, một ngày hướng Phật lại hồi Thiên
Khi nhà sư tỉnh dậy thì đã thấy Ác Lai đang lăm lăm cầm một mũi mác ở tay. Hắn quát hỏi: “Mày đi đâu thế?” Sư nhìn kỹ thấy hắn cũng không khác gì một người thường, bèn trấn tĩnh đáp: “Tôi đi tìm Phật”…
Quý độc giả thân mến, Phật Pháp có thuyết giảng câu rằng: “Thần Phật chỉ nhìn nhân tâm”, bởi vậy mà trong cõi nhân thế xưa nay đã từng có biết bao nhiêu người ngày đêm dựng chùa, khắc tượng, siêng năng kêu cầu lễ bái mà cả đời không ngộ đạo từ bi. Ngược lại, lại có những người chỉ nhất thời xuất ra một chân tâm nguyện, chân nguyện – một lòng hướng Phật, buông bỏ mọi vị tư và danh-lợi-tình nhân thế, ấy vậy mà đột nhiên tu thành đắc đạo. Câu chuyện về nhà sư bôn ba đi tìm Phật và mẹ con nhà Ác Lai dưới đây chính là như thế…
Chuyện kể lại rằng: ngày xưa, có một nhà sư trẻ tuổi rất mộ đạo. Sau hơn ba mươi năm khổ công tu luyện sư đã thuộc lòng tất cả những kinh kệ của nhà Phật, lại rất giỏi thuyết pháp. Vậy mà lâu rồi vẫn chưa thành chính quả…
Một ngày kia sư tự nhủ với lòng: “Phải hành hương đến đất Phật một phen mới có hy vọng thành chính quả”. Nghĩ vậy, nhà sư mới quyết chí tìm đường sang Tây Trúc.
Ðường đi từ nước nhà sang Tây Trúc ngày đó quả là mịt mùng gian khó. Việc qua lại hầu hết là theo đường bộ, mà đi bộ thì thật là muôn vàn nguy hiểm. Nhưng nhà sư trẻ tuổi quả quyết nhằm hướng tây mà tiến bước.
Cuộc hành trình đã được bốn mươi chín tuần trăng. Nhà sư đã nhiều lần lạc đường và mấy lần mê man vì sốt rét, nhưng nhờ được giúp đỡ của những người qua đường nên đều qua khỏi, và cứ thế ông tiếp tục cuộc hành trình.
Một hôm, nhà sư đến một khu rừng thì trời đã về chiều. Sư cố bước dồn, những mong tìm được một nơi nghỉ ngơi vì trong người đã thấy ơn ớn lạnh. May sao giữa rừng sâu, sư bỗng gặp một ngôi nhà. Nghe tiếng gọi cửa, một bà cụ già bước xuống sàn. Sư tỏ ngay ý định của mình là xin ngủ nhờ một đêm. Nhưng bà cụ vừa thấy khách đã xua tay rối rít.
– Đi mau lên! Mau lên! Con ta mà về thì không còn tính mạng.
Sư đáp:
– Tôi bây giờ thật là kiệt sức, không thể nào bước được bước nữa. Nếu không cho nghỉ thì cũng đành nằm liều trước cửa đây mà thôi.
Bà cụ nghe vậy rối rít bảo:
– Chao ôi! Con ta vốn là Ác Lai, một kẻ hay ăn thịt người. Hãy bỏ chạy đi nhanh lên, bây giờ nó sắp về rồi đó!
Nhưng sư đã vứt tay nải, nằm vật xuống đất. Hai đầu gối va vào nhau lập cập. Bà cụ thấy vậy không biết nói thế nào nữa, đành nắm tay ông, cố hết sức mà lôi đến một cái hầm đá lớn. Sau khi đẩy nhà sư vào, bà cụ bảo ông phải cố giữ cho im lặng, nếu như không muốn chết thê thảm. Ðoạn, bà cụ chất củi phủ lá che đậy lại căn hầm rất kín đáo.
Trời tối hẳn thì Ác Lai về đến nhà, vai hắn vác một con mang lớn, hắn dừng lại ở chân cầu thang và khịt mũi mãi. Rồi nói:
– Có mùi thịt mẹ ạ!
Mẹ hắn đáp:
– Thì chả là thịt con đem về đây là gì?
– Không phải. Thịt người. Con biết lắm. Có mùi thịt người, hắn trợn mắt nói.
Bà cụ chưa kịp cản thì hắn đã quẳng con mang lên sàn rồi chạy đi tìm. Chả mấy chốc, hắn đã lôi được nhà sư đang bất tỉnh nhân sự từ dưới hầm về nhà mình.
Khi sư tỉnh dậy thì đã thấy Ác Lai đang cầm một mũi mác lăm lăm ở tay. Hắn quát hỏi:
– Mày đi đâu thế?
Sư nhìn kỹ thấy hắn cũng không khác gì một người thường, bèn trấn tĩnh đáp:
– Tôi đi tìm Phật.
– Tìm để làm gì? – Ác Lai hỏi.
Nhà sư bây giờ mới nói rõ mục đích của mình, ngài ôn tồn giảng giải đạo lý từ bi cho hắn. Sư nói mãi, kể lại bao nhiêu tháng ngày gian khổ của mình dọc đường ra sao, và niềm mong muốn cuối cùng là làm sao tìm được Ðức Phật để mà thành đạo.
Sư nói khéo quá, đến nỗi mẹ con Ác Lai đều cảm động mà rơi nước mắt. Thấy họ thành thật hối lỗi. Sư cho họ biết là họ cũng sẽ trở nên “vô sinh vô diệt”, sẽ sống một đời sống vô cùng sung sướng trên Thiên giới, nếu họ kiên quyết bỏ ác làm thiện… Thế rồi, tự nhiên mũi mác ở tay Ác Lai từ từ buông rơi xuống sàn. Những biểu hiện dữ dằn, hung ác trên khuôn mặt lúc nãy bây giờ đã dịu lại.
Sáng hôm sau, khi nhà sư chuẩn bị lên đường thì mẹ con Ác Lai vui vẻ sắp sẵn lương thực cho ông. Họ lại tiễn đưa sư đi qua một ngọn núi đá. Khi sắp từ biệt n nhà sư, Ác Lai hỏi:
– Tôi biết lấy gì mà dâng Phật đây?
Sư đáp:
– “Tâm tức thị Phật. Phật tức thị tâm”. Chỉ cần có lòng thành tâm hướng Phật là đủ.
Sư không ngờ vừa nghe thấy vậy, Ác Lai đã rút mũi mác, nhanh như cắt tự rạch từ ngực tới bụng mình, lôi ra cả một mớ ruột gan đưa cho nhà sư rồi y chỉ kịp nói nhanh qua hơi thở đứt đoạn:
– Nhờ hòa thượng đưa hộ… dâng lên Ðức Phật!
Sư lấy làm bối rối quá. Chỉ vì Ác Lai hiểu nhầm lời nói của mình. Bây giờ còn biết làm thế nào đây. Cuối cùng nhà sư đành nhìn vào cặp mắt đầy trăn trối và chân thành của Ác Lai, gật đầu nhận lời rồi gói bộ lòng của con người đáng thương đó mà quả quyết lên đường…
Sư vừa đi được mấy ngày thì khu rừng rậm biến mất, hiển lộ ra trước mặt là cảnh trời nước mênh mông bát ngát trông thật là thanh bình và khoáng đạt, nhưng trong bụng sư thì chẳng vui một tí nào. “Món lễ vật” của Ác Lai nhờ dâng Ðức Phật đang đè nặng trên vai ông. Nếu chỉ có thế thì không có gì là đáng ngại cho lắm! Khổ một nỗi là mùi xú uế trong bộ lòng kia xông ra ghê sợ khó tả! Sư đã bọc nó ba tầng bốn lớp mà cái mùi kia vẫn bốc lên nồng nặc. Sư lẩm bẩm:
“Như thế này thì các nhà trọ dọc đường còn ai dám chứa mình đây!”…
Qua ngày hôm sau, không thể chịu được nữa, Sư bèn vứt bộ lòng của Ác Lai xuống biển.
Nhà sư đi mãi, đi mãi rồi cũng đến Tây Trúc. Nhưng khi phủ phục trước Phật đài nói lên nỗi thắc mắc của mình vì sao chưa được đắc đạo thì bỗng nhiên trên điện cao có tiếng vọng truyền xuống rằng:
“Con còn thiếu một vật nữa mới thành chính quả!”…
Sư rất đỗi ngạc nhiên, cố ngước mắt nhìn lên. Trên chín tầng trời cao bát ngát, sư thấy Ðức Phật đang ngự giữa tòa sen, ánh sáng chói lòa, sau lưng Ngài có bóng dáng hai người tựa hồ như hai mẹ con Ác Lai cùng hòa lẫn trong ánh hòa quang tỏa sáng. Sư bỗng hiểu hết: Ðức Phật đã thấy rõ sự thiếu thành thực, thiếu tận tâm của mình, còn mẹ con Ác Lai nay đã thành chính quả chỉ là nhờ sự ngộ đạo đột ngột và chân thành trong phút chốc… Sư cúi đầu, phủ phục hồi lâu, trong lòng thẹn thùng và hối tiếc không sao tả xiết!…
Nhà sư đành thẫn thờ trở về chốn cũ để tìm lại bộ lòng của Ác Lai. Tuy biển mênh mông và sâu thăm thẳm, nhưng cũng cố lặn hụp để mong thấy lại món quà dâng Phật mà Ác Lai từng gửi gắm mình. Sư nghĩ chỉ có làm thế mới dám nhìn lại mẹ con Ác Lai và có hy vọng được gần gũi tòa sen của Đức Phật.
Sư bơi lên lặn xuống tìm mãi cho đến khi sức cùng lực tận. Sau đó sư hóa thành loài cá mà người ta vẫn gọi là cá He, cũng gọi là cá Nược hay có nơi gọi là cá Ông Sư. Vì cho đến ngày nay dòng dõi loài cá đó con nào con nấy có cái đầu trọc nhẵn, và vẫn làm cái việc mải mê tìm kiếm của nhà sư nọ – nghĩa là chúng bơi theo từng đàn, cứ lặn xuống nổi lên liên hồi không ngừng nghỉ.
Những người ngư dân đi biển lâu năm còn kể lại rằng, loài cá He ấy rất ghét những ai trêu chọc mình. Ai trêu chọc nghĩa là gợi lại chuyện câu chuyện đau lòng xưa cũ, khi đó bầy cá He sẽ kéo đàn đàn lũ lũ tới quậy phá, làm cho đắm thuyền rách lưới. Trái lại, ai khen ngợi reo hò thì chúng sẽ lặn xuống nổi lên nhiều lần để bày tỏ thành ý và lòng biết ơn.
Đường Phong
– Nguồn tư liệu tham khảo, theo: “Sự tích cá he” – Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam – Nguyễn Đổng Chi