Tại sao có ngày nay có rất nhiều người tu hành nhưng lại rất hiếm thấy có người đắc Đạo? Đạo sĩ đắc Đạo tiết lộ những bí ẩn của việc tu hành. Có rất nhiều người tìm đến ông học Đạo, nhưng cuối cùng ông cảm thán: “Đáng tiếc là con đường cầu Đạo lại quá đắng cay tịch mịch, bao nhiêu năm qua không một ai trong số họ có thể kiên trì tu Đạo”.
- Xem lại: Phần 1/2
Ẩn tu trên núi
Người xuất gia cũng là người được cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng, trước khi xuất gia họ cũng từng có tình cảm nam nữ. Tuy nhiên, phương pháp tu hành xác thực sẽ khiến những ý nghĩ ấy nhanh chóng qua đi. Người xuất gia nếu thực sự động tâm thì cũng có thể quang minh chính đại hoàn tục mà kết hôn, không cần phải lén lén lút lút.
Khi tôi còn trẻ, một tiểu thư giàu có ở Tây An đối với tôi rất tốt. Cô ấy muốn mua nhà ở Tây An để kết hôn với tôi, lại còn tặng tôi năm mẫu đất để xây chùa, nhưng tôi đều từ chối.
Trước khi đi, cô ấy lại tặng tôi chiếc áo lông Nhật Bản mà cô đang khoác trên người, nhưng tôi cũng không muốn. Cô hỏi: “Những người xuất gia khác đều đến xin tôi thứ gì đó, nay tôi tặng cho anh, sao anh lại không muốn?”
Tôi nói: “Tôi là người xuất gia xin ăn mà lại khoác áo lông Nhật Bản, thế thì kỳ quái làm sao.”
Tôi vẫn còn nhớ cô gái ấy sống ở ngôi nhà thứ ba về phía nam, trên con đường phía đông ngã tư Giải Phóng ở thành Tây An. Tuy nhiên, đó đều là những chuyện trước khi giải phóng.
Khi sắp giải phóng, rất nhiều người trong Bát Tiên Cung đều chạy trốn ra nước ngoài. Có người đến Ấn Độ, Nhật Bản, còn có người đến Hương Cảng, Đài Loan, tới đâu cũng có người chạy trốn. Họ nói rằng ‘tân Trung Quốc’ không có tín ngưỡng tôn giáo, họ sắp xử lý người trong tôn giáo rồi. Nhưng tôi không chạy trốn, họ cũng không xử lý tôi, chẳng qua khi “phá cựu” họ đã bức tôi phải hoàn tục. Tôi không nguyện ý, bèn trốn vào núi Chung Nam giúp trông coi kho hàng cho nhà máy dược. Những lúc không có việc gì làm, tôi lại đi khắp nơi tìm chỗ thích hợp để tu Đạo.
Tôi chạy khắp các đỉnh núi gần đó, cuối cùng mới tìm được một nơi mà thôn dân trong vùng gọi là “đỉnh Bát Quái”. Nơi ấy có rất nhiều tảng đá kỳ lạ, nghe nói năm xưa Phục Hy từng bày trận Bát Quái ở đó. Bạn nói xem, có xảo diệu hay không? Trước đây tôi rất thích xem toán mệnh cho người ta, nên có tước hiệu là “Bát Quái Thần Tiên”. Hết thảy những điều này đều là Thái Thượng Lão Quân an bài.
Tôi quyết định dựng một ngôi đền nhỏ trên đỉnh Bát Quái để tự mình tu hành. Tôi cầm theo hai chiếc rìu, hai con dao rựa và một ít lương thực leo lên núi, bắt đầu dựng một mái tranh nhỏ. Nhà tranh còn chưa làm xong mà lương thực đã hết, khi trời mưa tôi phải đứng dựa vào vách đá mà ngủ, lúc đói thì ăn lá thông. “Thần Nông Bản Thảo Kinh” chép rằng: Lá thông là đồ ăn của Tiên nhân, là Tiên dược của Đạo gia, ăn vào để tịch cốc trường sinh, bách bệnh đều khỏi hết.
“Bản Thảo Cương Mục” cũng viết: Lá thông có thể trị bách bệnh, an ngũ tạng, mọc lông tóc, chịu được nóng lạnh, chịu được gió dập mưa vùi, khinh thân ích khí (nhẹ thân, bổ khí), kéo dài tuổi thọ.
Vì thế, tôi trồng hai cây thông ở phía trước và phía sau nhà tranh, mỗi ngày đều đả tọa tịnh tu dưới gốc thông, khí thông trong lành cũng trợ giúp rất nhiều cho việc tu hành.
Người tu Đạo sống cô độc, không cần bằng hữu. Hiện nay những người lắm thế lắm quyền đều có rất nhiều bạn bè. Đợi đến khi họ không còn làm quan nữa, khi đã trở nên khốn cùng rồi, thử nhìn lại xem xem họ còn có bạn nữa hay không? Người nghèo đứng trên đường lớn không ai ngó ngàng tới, còn kẻ giàu ở sâu trong núi vẫn có họ hàng xa tìm đến. Bạn bè thịt rượu, vợ chồng cơm canh, đây đều là điều thực tại.
Hồi tôi mới lên núi, chỉ có rất ít người hái thuốc, một năm vào hai mùa xuân hạ họ mới thi thoảng lên núi hái cỏ xương bồ. Lúc ấy một cân xương bồ chỉ có vài hào, đến nay đã tăng lên 40, 50 đồng một cân. Số người hái thuốc tỷ lệ thuận với giá thuốc. Xương bồ là thứ tốt, nhưng tôi lại rất hiếm khi ăn, ngay cả nhân sâm rừng tôi cũng không ăn. Thứ tốt có rất nhiều nhưng lại không ăn được, thứ thân thể không cần thì dù tốt đến mấy cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Trên núi khó kiếm thức ăn, đồ ăn đều do tôi cõng từng chút từng chút một leo lên. Có lần, các thôn dân đi hái thuốc đến tá túc ở chỗ tôi, ăn xong còn bao nhiêu cơm thừa họ liền ném vào đống phân trong nhà vệ sinh. Tôi nhìn thấy, bèn nhặt phần cơm ở trên bề mặt, rửa sạch lại với nước rồi lại nấu lên ăn. Từ đó, họ không còn lãng phí đồ ăn nữa.
Tôi rất nhút nhát, sống một mình trên núi nên rất sợ, mỗi khi sợ tôi lại đọc “Linh Quan Cáo”. Tôi đọc được hơn chục lượt thì thấy gió lớn từ trên núi thổi vào trong nhà, ngày nào cũng như thế. Tôi nghĩ: [Cơn gió này là Tổ sư tới để đồng hành cùng tôi], nhưng cứ mãi quấy rầy Tổ sư như thế thì cũng không được, liệu có thể nhờ Sơn Thần tìm giúp tôi một người bạn đồng hành được không?
Tôi mới nghĩ như vậy, hôm sau lúc trời sẩm tối có một con hổ gầm lên từ sau núi đi tới. Vừa thấy con hổ tôi liền chống gậy vào cửa cho chắc chắn. Nhưng con hổ chỉ nằm bất động trên tảng đá cách đó không xa, cũng không có ý đến gần tôi. Một ngày rồi hai ngày, cứ đêm đến nó lại tới, tôi biết đó là do Sơn Thần tìm bạn giúp tôi. Sau này tôi mở cửa ra, nó quay sang nhìn tôi nhưng vẫn không tiến lại gần. Một tháng sau có vị sư huynh lên đỉnh Bát Quái tìm tôi, tôi nói với huynh ấy rằng: “Có con hổ cứ trời tối là đến, huynh đừng sợ nhé”. Nhưng từ ngày hôm đó, con hổ biết tôi đã có bạn rồi nên cũng không còn quay lại nữa.
Sau này Cách mạng Văn hóa nổ ra, người ta liên tục gọi tôi xuống núi để mở hội. Hôm nay ông đấu tôi, ngày mai tôi đấu ông, đều là những người quen biết đấu tố nhau. Những đứa trẻ vừa biết nói đều có thể mở miệng chửi tôi, chỉ vì tôi là một Đạo sĩ, chính là như vậy. Người trong tôn giáo đều trở thành đối tượng bị đấu tố, nên tôi không thể tiếp tục khám bệnh cho người ta được nữa.
Một ngày có hai cô gái đến Đạo quán, họ vừa xóc quẻ vừa khóc, nói rằng họ muốn xem xem liệu người nhà còn sống được bao lâu. Tôi vừa xem quẻ liền biết rằng mệnh người này không phải chết. Tôi liền hỏi xem rốt cuộc là chuyện gì. Cô gái ấy nói rằng con trai cô bị bệnh viện trả về, họ nói là không thể trị được nữa, hãy về nhà chuẩn bị hậu sự đi. Tôi thấy cô gái đó thật đáng thương, liền bảo họ cứ về trước, nửa đêm tôi sẽ đến trị bệnh cho. Sau ba lần đi đi lại lại, tôi đã chữa khỏi cho người đó.
Hồi ấy khắp cả nước đều loạn, ngay cả bí thư huyện ủy cũng bị đánh đập đến mức tàn phế. Nhưng điều khiến tôi bất ngờ nhất là, khi tôi trở thành đối tượng trọng điểm bị đấu tố thì kẻ đấu tôi cực lực nhất lại chính là người mà tôi đã mạo hiểm cứu sống trong đêm. Người ấy hỏi tôi: Vì sao tôi cứu mạng cậu ta mà lại không thu tiền? Nhất định là có âm mưu gì đây!
Lúc ấy tôi mới thực sự tin là trên đời lại có kẻ lấy oán trả ân, nhưng tôi không hiểu vì sao thế đạo lại đột nhiên thành ra như vậy. Vì sao một chút đạo nghĩa cũng không có? Từ đó về sau, tôi không còn trị bệnh cho người khác nữa. Tôi đốt hết y thư, vứt kim xuống đất không cần đến nữa, số thuốc còn thừa tôi đổ từng gùi từng gùi xuống sông Vị Hà. Người bên bờ sông hỏi tôi vì sao lại làm vậy? Tôi nói: Đã mốc rồi, không thể chữa trị được nữa. Tôi nghĩ: Nhân tâm bại hoại rồi, trị thế nào cũng vô dụng.
Cho đến nay, tôi đã 50 năm không hành y nữa rồi, chưa cần nói đến dược tính ra sao, mà ngay cả tên thuốc tôi cũng không còn nhớ nữa.
Thế nào là tu hành?
Trên Trời một trăm vị Thần Tiên thì có đến bảy mươi vị thành Đạo ở núi Chung Nam. Chúng tôi nhập Đạo, mục đích lớn nhất là để tu thành Thần Tiên. Nếu không thể đắc Đạo làm Thần thì bản thân không thể kiểm soát được số mệnh. Một người trong mệnh đã định sẵn sẽ chết ở đâu, trong hố sâu hay chỗ trũng, đó là điều đã được an bài bất di bất dịch. Ngoài ra, người ta chết như thế nào, chết vì lạnh, vì đói, hay là chết vì bệnh thì cũng đều là điều đã định trước. Làm việc tốt thì tăng thọ mệnh, làm việc xấu thì giảm thọ mệnh, nhưng cho dù tăng giảm bao nhiêu năm thì khi chết vẫn phải quay lại nơi đã định.
Nam Đẩu chủ sinh, Bắc Đẩu chủ tử. Phía sau mái nhà tranh trên đỉnh Bát Quái có một ngọn đồi, tôi gọi đó là “Bái Đẩu Nham”. Vào những đêm khí trời trong sáng, tôi thường dập đầu lạy về phía sao Bắc Đẩu, mỗi lần lạy vài trăm cái. Có lúc, Tổ sư hóa thành một ngôi sao rất lớn triển hiện cho tôi nhìn thấy, tôi biết rằng lúc bình thường ở chỗ đó vốn dĩ không có sao.
Trong đời mình tôi đã từng hai lần gặp Thần Tiên, một lần là khi ở trong núi sâu, một lần là ở nơi thành thị. Đáng tiếc là cơ duyên vẫn chưa đủ, nên lần nào tôi cũng không nhận được điểm hóa.
Lên Trời có dễ không? Có ai chưa hề bỏ ra chút công phu, chưa chịu khổ chút nào lại có thể thăng lên Trời được? Cổ nhân vì muốn học Đạo mà phải lặn lội bên ngoài mấy chục năm tầm Đạo. Hiện nay rất nhiều người buổi sáng bái sư, buổi chiều liền muốn đắc Đạo, mới đến hai lần liền muốn học tuyệt kỹ. Cho dù có vạn quyển sách gia truyền thì điều chân truyền cũng chỉ vài câu. Sống ở đâu, chết ở đâu, chỉ ra điểm then chốt, ở trong sinh tử mà đặt công phu mới có thể nhảy thoát khỏi sinh tử.
Nhưng bạn cũng phải hỏi xem bản thân đã có công đức gì? Đã đọc mấy lần “Đạo Đức Kinh”, “Thái Ất Tinh Hoa Tông Chỉ”, “Thái Thượng Lão Quân Thanh Tịnh Kinh”? Nếu không được chỉ điểm, theo người khác loạn tu, tu ra tật bệnh thì muốn chết cũng không chết được, muốn sống cũng không sống được, khổ não vô cùng, cho dù bác sĩ giỏi đến mấy cũng không thể chữa được.
Có vị nữ nhân không biết đã học công gì, mỗi lần phải ngồi xổm ba trăm lần, kết quả ngồi đến hoại cả xương cốt. Còn có rất nhiều người luyện Bế khí công, họ nói rằng thai nhi trong bụng mẹ không hô hấp, họ cũng phải luyện đến mức không còn hô hấp như thai nhi vậy. Họ không biết rằng, nếu như tìm đến chỗ không đúng thì bế khí chính là giết người. Còn có người luyện tịch cốc, suốt mấy chục ngày không ăn cơm. Đó là vào những năm thiên tai đói kém không có gì ăn, nên người ta mới cần có phương pháp để chịu đựng qua năm tháng, chứ không thể dùng trong tu Đạo thông thường.
Số người tu Đạo hiện nay đông hơn so với các triều đại trong lịch sử trước kia, nhưng yêu ma quỷ quái cũng đều ra khỏi động. Phật gia có 84.000 bàng môn, Đạo gia cũng có 3.600 bàng môn. Loại Đạo này, loại Đạo kia, quá nhiều đến mức người ta không biết đâu là Đạo thật, đâu là Đạo giả. Vàng thau lẫn lộn, nhân tâm loạn rồi, chân Đạo cũng không còn xuất ra nữa. Hơn nữa, ngay cả tà đạo cũng không cho rằng bản thân họ là tà đạo, họ vẫn cảm thấy bản thân mình là chính Đạo. Do đó, khi tà đạo càng thịnh thì chân Đạo càng thoái, thoái đến mức cuối cùng không còn chỗ nào để thoái nữa, thì chân Đạo tự nhiên xuất ra, tà đạo cũng tự nhiên tiêu diệt.
Có người mang sách mà họ biên soạn ra hỏi tôi, tôi xem qua đề cương liền hỏi anh ta: “Ông viết sách dạy người khác tu hành ra sao, vậy ông đã tu thành chưa? Ông đã tự mình thể nghiệm việc tu hành chưa? Sao chỗ này một câu, chép chỗ kia một câu, thế chẳng phải là hại người à?“
Tôi hỏi đến mức ông ta toát mồ hôi đầm đìa. Hiện nay một số người đang bảo người khác tu như thế nào thế nào, đó đều là phương pháp sai lầm, tôi nghe nói đều thấy thật đáng sợ.
Nói về thiền
Người ngày nay hô hào đả tọa, nhưng mục đích đả tọa là gì? Tu thành Thần Tiên sao? Những thứ lặt vặt khắp thân họ đều không dám vứt đi, trong tâm rối bời, tinh lực tiêu hao đến mức không còn nữa, vậy thì lấy gì mà đả tọa, lấy gì mà tu? Thứ chân chính đang đả tọa không phải là “cơ thể”, mà là “tâm thần”.
Ngồi đả tọa ở mãi một tư thế trong thời gian dài ngược lại lại không tốt, khí huyết không thông được. Lựa chọn ngồi hay nằm không quan trọng, ngồi sao cho thoải mái mới là quan trọng nhất. Thân thể thoải mái rồi tâm sẽ có thể an bình. Thời gian tốt nhất cho đả tọa là giờ Tý và giờ Dần. Giờ Tý khai thiên, giờ Sửu khai địa, giờ Dần vạn vật phát sinh. Buổi sáng từ 3 giờ đến 5 giờ sáng là thời gian luyện công lý tưởng nhất, nếu một người cả đời có thể luyện công vào giờ này mà không bỏ dở giữa chừng thì nhất định sẽ có thành tựu. Nhưng thời thời phải chuyên chú, việc thủ thần cũng rất trọng yếu.
Không được nín thở, càng không được ý thủ đan điền gì đó. Đả tọa cần phải thần tư bất động, thần không rời khỏi thân mới có thể khỏe mạnh. Tổ sư Trùng Dương sớm đã nói rằng: Tam bảo bên ngoài không rò rỉ, tam bảo bên trong tự hợp, mắt không nhìn, tai không nghe, miệng không nói, tự sẽ trường sinh.
Bế quan cũng như thế, thứ cần đóng là tam quan: mắt, tai, miệng. Có một số người chỉ đóng chặt bản thân, không gặp người khác, như thế vô dụng, cho dù đóng chặt ba năm cũng đều vô dụng. Đại Đạo dễ đắc, nhất khiếu khó cầu. “Thanh Tịnh Kinh” thuyết: “Nhân năng thường thanh tịnh, thiên địa tất giai quy” (nếu con người luôn đạt được thanh tĩnh thì thiên địa vạn vật đều quy tụ).
Chỉ cần con người có thể an tĩnh ngồi tại đó thì năng lượng của đất trời sẽ có thể quay trở lại. Khi thân tâm hợp nhất, thân thể sẽ xảy ra biến hóa, lúc ấy tự nhiên sẽ dẫn dắt chúng ta làm cách nào khai mở khiếu huyệt. Cho dù ở đâu, có thời gian rảnh rỗi hãy tĩnh tọa, không cần suy nghĩ quá nhiều, ngưng thần điều tức, điều tức ngưng thần (tập trung tinh thần, điều hòa hơi thở). Năng lượng của thân thể được dự trữ đầy đủ thì “thủy đáo cừ thành” (nước chảy thành sông), nguyên thần quy vị. Tư thế không quan trọng, nếu bắt chéo hai chân liền có thể thành Tiên thì tôi sớm đã trói mình lại rồi.
Tổ sư nói: ‘Đại Đạo chí giản bất phồn’, Đạo rất giản đơn, thứ càng phức tạp càng không phải là Đạo. Nên ăn ít các món huân (thịt và đồ cay, hăng), ăn chay nhiều hơn, chăm chỉ tản bộ dưới ánh trăng. Vạn duyên đều buông bỏ mới có thể trường thọ như Bành Tổ, những thứ tạp kỹ trò hề cố làm ra vẻ huyền bí đều là thứ cần tránh xa.
Có người hỏi tôi: “Hiện nay cả Phật giáo và Cơ Đốc giáo đều rất hưng vượng, còn Đạo gia các ông vì sao càng ngày càng suy bại như vậy?”
Tôi nghĩ: Không chỉ tín ngưỡng Đạo giáo, mà là người hiểu được Đạo giáo càng ngày càng ít đi rồi. Tôi bèn hỏi họ: “Các cậu thấy trên núi nhiều nấm hơn hay nhiều linh chi hơn? Trong biển tôm cá nhiều hơn hay rồng nhiều hơn?”
Người thực sự có Đạo học thường không xuất hiện trong xã hội, chỉ khi ông muốn gặp bạn thì mới xuất hiện, chứ sẽ không ở nơi danh sơn đại xuyên cho bạn đến tham quan. Bạn hoàn toàn không thể gặp được họ, dẫu gặp được rồi bạn cũng không thể nhận ra. Bởi vì hiện nay trong xã hội người tin vào tà đạo thì nhiều, người tin vào chân Đạo lại ít, người ta đã không tin thì bạn cũng chẳng còn lời nào để nói nữa.
Núi Chung Nam
Mỗi năm đều có người mộ danh cầu Đạo lên đỉnh Bát Quái, tôi từng động tâm thu giữ họ lại làm đệ tử. Đáng tiếc là con đường cầu Đạo lại quá đắng cay tịch mịch, bao nhiêu năm qua không một ai trong số họ có thể kiên trì tu Đạo. Điều ấy khiến tôi đã lãng phí thời gian lại còn thương tâm.
Tôi rất ít khi khen ngợi người khác. Tôi cảm thấy người nói những lời bùi tai phần nhiều đều có mục đích, nếu ai đó liên tiếp ba lần nói với tôi những lời ngon ngọt, tôi sẽ đặc biệt đề phòng. Quá tam ba bận, tuyết rơi hãy mau chạy về, tôi không phải là kẻ ngốc, tôi biết ai đang lừa dối mình.
Tôi đã trải qua mấy mùa đông ở núi Chung Nam. Thời tiết trên núi rất lạnh nhưng tôi không sợ, tôi chỉ sợ nếu phải xuống núi gánh nước lên, khi ấy đường đông cứng lại, kết thành băng rất trơn. Có lần một người vấn Đạo đã bị trượt ngã vào nhà vệ sinh, hơn nữa còn bị đập vào thắt lưng. Vì thế, cứ đến mùa đông tôi lại về phương nam tránh rét.
Đỉnh Văn Bút ở Hải Nam là nơi có linh khí, ở nơi ấy Bạch Ngọc Thiềm Chân nhân đã từng tu Đạo thành Tiên, ông cũng là người sáng lập Kim Đan phái Nam tông.
Cung Bạch Ngọc Thiềm bắt đầu xây dựng vào năm 2003 và khai quang vào năm 2006. Năm 2008 tôi đến đó. Đó là vì khi còn ở trên núi tôi rút quẻ, trên đó đề hai chữ “Hải Nam”, thế là tôi liền đến. Khi vừa đến nơi, tôi thấy ở đó không có hương hỏa, hơn ba trăm nhân viên suốt nửa năm rồi vẫn chưa được phát lương. Một ngày họ chỉ có thu nhập 130 tệ, mỗi tháng đều thâm hụt mấy trăm nghìn tệ. Sau khi tôi đến, nơi ấy đã giữ được cân bằng, các nhân viên không cần ra ngoài tìm du khách mà du khách cũng tự tìm đến.
Họ ngỏ ý xây viện phương trượng cho tôi, nhưng tôi từ chối. Người ta chi tiền xây chùa cho tôi, đến mùa hè tôi lại rời đi thì thật lấy làm tiếc, bởi tôi chỉ đến đó để tránh đông mà thôi.
Tôi đã đi qua rất nhiều nơi trên toàn quốc, đâu đâu cũng không được như đỉnh Bát Quái trên núi Chung Nam, đó mới là thế ngoại đào viên thanh tịnh nhất. Không khí trên núi đến từ Thái không, rất thơm, đến mùa hè tôi nhất định quay lại. Tôi thích ở núi Chung Nam, giản đơn, thanh tĩnh, cũng không cần nói chuyện với nhiều người…
(Hết)
(Theo lời tự thuật của Đạo sĩ Trương Chí Thuận đăng trên Zhangzhishun.com)
Nguồn: ntdvn (Minh Hạnh biên dịch)