Blog
Tuổi trẻ ham chơi, 17 tuổi kết hôn, ngày cưới chú rể mất tích, tại sao sau này trở thành bậc Thánh hiền?
500 năm trước, Vương Dương Minh đã trải qua nhiều kiếp nạn và cuối cùng ngộ Đạo, ông chiêm nghiệm được đạo lý “Tâm tức lý” (Tâm chính là lý), trở thành bậc Thánh hiền có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng người đời sau. Con đường từ một đứa trẻ ham chơi đến bậc Thánh hiền của ông như thế nào?
Khóc cờ tướng
Một ngày nọ, khi sắc trời dần tối, đến giờ ăn cơm, người cha Vương Hoa gọi liền ba tiếng vẫn không thấy bóng dáng con trai. Lúc này Vương Hoa mới phát hiện con trai Vương Thủ Nhân không thấy đâu nữa. Không cần nghĩ, Vương Hoa cũng biết con trai đã chạy đi đánh cờ rồi.
Vương Thủ Nhân khi đó mới 6 tuổi, nhưng chớ xem thường cậu. Ngoài việc ham chơi giống như những đứa trẻ cùng tuổi khác, Vương Thủ Nhân còn biết biểu diễn võ thuật, cậu múa thương rất giỏi.
Không chỉ vậy, cậu còn bộc lộ tài văn thơ từ rất sớm, những bài thơ của cậu ý tứ dạt dào, thơ văn lai láng. Ngoài ra Vương Thủ Nhân còn có một sở thích rất phổ biến thời đó – Cờ tướng.
Để có cuộc sống bình an và hút nhiều tài lộc, hãy tham khảo các vật phẩm phong thủy thủ công của Hòn Ngọc nhé!
Lẵng Tài Lộc Buôn May Bán Đắt
Tháp Tỏi Ngũ Hạt Hút Tài Lộc
Vòng Tỏi May Mắn Chiêu Tài Hút Lộc
Trước đó không lâu, Vương Thủ Nhân đột nhiên say mê cờ tướng. Cậu thường đấu cờ với những người lớn dưới một gốc cây bên sông. Dựa vào tài trí thông minh và tư duy lanh lẹ của mình, cậu thường tuy bé mà thắng lớn. Điều này khiến rất nhiều người lớn phải nhìn cậu với ánh mắt thán phục, và họ cũng rất thích đánh cờ với cậu.
Vương Thủ Nhân say mê đánh cờ đã đến mức quên ăn quên ngủ, có lúc còn không nghĩ đến chuyện ăn uống. Thấy con trai như vậy, người cha Vương Hoa cũng lắc đầu thở dài, không biết phải làm thế nào.
Vương Hoa nghĩ rằng con trai cũng giống như mình những năm đó. Thì ra khi bằng tuổi Vương Thủ Nhân hiện tại, Vương Hoa cũng ham đọc sách đến mức không quan tâm điều gì khác. Trong khi người lớn, trẻ nhỏ, đều nô nức đi ngắm cảnh xuân, tham gia lễ hội, thì Vương Hoa lại ngồi đọc một quyển kinh thư.
Lúc ấy Vương Hoa cho rằng, đi ngắm cảnh xuân không bằng ngồi đọc sách. Thật giống như câu: “Hai tai không nghe chuyện ngoài cửa, trong lòng chỉ đọc sách Thánh hiền”.
Nhưng so sánh như vậy, Vương Hoa vẫn cảm thấy con trai mình đã không dành sức lực vào những chuyện đúng đắn. Ham chơi như vậy chẳng phải là ăn chơi lêu lỏng sao? Nghĩ vậy, Vương Hoa liền tìm đến chỗ con trai đang chơi cờ và tức giận ném bàn cờ xuống sông.
Vương Thủ Nhân đang dồn hết tâm chí vào bàn cờ, không quan tâm gì đến trời đất bên ngoài, lúc này mới ý thức được, cha cậu đến rồi. Không xong rồi! Mắt cậu nhìn những con cờ yêu quý của mình trôi theo dòng nước.
Vương Thủ Nhân vẫn còn là một đứa trẻ, khi ấy cậu giống một trái bóng bị xì hơi, hai hàng nước mắt như lăn dài trên má, mọi việc cứ như sét đánh ngang tai. Chỉ có điều nếu đó là một đứa trẻ bình thường, cho dù không cúi đầu nhận lỗi thì cũng là nhìn mọi người và cha rồi kêu gào khóc lóc.
Nhưng Vương Thủ Nhân không cư xử như vậy, nếu không thì cậu cũng giống như một đứa trẻ bình thường rồi. Cậu vẫn khóc, nhưng khi vừa dứt liền ngâm một bài thơ. Đó là hoàn cảnh ra đời của bài thơ “Khóc cờ tướng” vẫn luôn được mọi người tán dương.
Cờ tướng trên tay lạc thú thay.
Khốn nỗi cha nghiêm ném mất bay.
Binh tốt rớt sông không cứu nổi.
Tướng quân đuối nước cũng bó tay.
Mã phi ngàn dặm theo nước chảy.
Sỹ chốn ba sông sóng cuốn trôi.
Pháo gầm một tiếng long trời đất.
Tượng lồng gục ngã ruột gan rơi.
Nghe xong bài thơ được gieo vần vè này, những người xung quanh liền vỗ tay tán thưởng. Đến cả người cha Vương Hoa đang tức giận cũng bị bài thơ của con trai làm cho phì cười. Mặc dù bài thơ “Khóc cờ tướng” trong chốc lát đã trở thành một giai thoại trong giới chơi cờ, nhưng trong mắt của Vương Hoa, ông cảm thấy rằng, dù có chơi cờ giỏi thế nào chăng nữa, thì cũng chỉ được xem là trò tiêu khiển.
Nếu cứ chìm đắm lâu dài trong đó, nhất định sẽ ảnh hưởng đến thời gian đọc sách Thánh hiền, nên trong lòng ông vô cùng lo lắng
Tuổi trẻ tinh nghịch
Năm 1481, người cha Vương Hoa đỗ trạng nguyên, ông đến kinh thành làm quan, phụ trách giảng giải kinh sách Thánh hiền cho Hoàng đế và Thái tử. Năm sau, Vương Hoa đưa Vương Thủ Nhân (Vương Dương Minh) đến kinh thành, đồng thời tìm cho cậu một trường tư thục, để cậu tiếp tục học Tứ thư Ngũ kinh.
Nhưng một ngày nọ, khi Vương Thủ Nhân mười lăm tuổi, đột nhiên cậu đi đâu mất. Thì ra cậu một mình đi qua quan ải ở biên cương mà không nói với ai. Một mình cậu cưỡi ngựa, cầm đao, mang theo cung tên ra khỏi ải Cự Dung, đi qua cao nguyên Tắc Bắc, muốn tìm hiểu sông núi địa lý, phong thổ đất đai và con người ở vùng đất biên cương, cũng như tình hình của bộ tộc Ngõa Lạt Mông Cổ.
Vương Thủ Nhân cũng chỉ là nhất thời cao hứng nên mới thúc ngựa vượt qua biên ải. Trên thảo nguyên mênh mông, một thiếu niên với dáng vẻ hiên ngang trèo lên đỉnh núi.
Cậu cúi nhìn vùng đất năm xưa Đại Hán và Hung Nô từng giao tranh, trong lòng than thở, cảm khái không nói nên lời. Đây là nơi Vĩnh Lạc Đại Đế từng năm lần chinh phạt đại mạc phương bắc, chỉ đáng tiếc từ sau biến cố Thổ Mộc Bảo, võ công của Vĩnh Lạc Đại Đế đã trở thành truyền thuyết.
Nhìn lên thảo nguyên phương bắc mênh mông, trong lòng Vương Thủ Nhân một lần nữa nhen nhóm lên hoài bão và ý chí to lớn, với mong muốn an bang trị quốc, kinh lược thiên hạ.
Thoáng chốc một tháng trôi qua, Vương Thủ Nhân thấy rằng đã đến lúc về nhà, lúc này cậu mới lên đường trở về. Vừa về đến cửa, cậu thấy cha đang lo lắng. Nhìn thấy con trai bình yên trở về, Vương Hoa vừa lo vừa giận.
Con trai bình an trở về, không chút tổn hại nào cũng là điều tốt, Vương Hoa đang chuẩn bị mắng con trai vì sao không từ mà biệt, nhưng lời lên đến miệng chưa kịp nói, Vương Thủ Nhân đã cướp lời cha thao thao bất tuyệt.
Vương Thủ Nhân kể hết ra tất cả những điều mà cậu mắt thấy tai nghe trong một tháng qua. Nói xong, cậu còn nói thêm một câu: “Cha à, trong một tháng con không gặp cha, mọi thứ vẫn ổn chứ?”.
Trước sự quan tâm và hỏi thăm của con trai đối với mình, Vương Hoa làm sao có thể nổi giận được? Cơn tức giận của ông cũng giảm đi hơn một nửa. Trái lại, Vương Hoa còn cảm động, ông cho rằng con trai của mình cuối cùng cũng hiểu chuyện rồi.
Nhưng chỉ một phút sau, Vương Hoa lại há hốc miệng khi Vương Thủ Nhân trịnh trọng mang ra một bản tấu sớ đã viết xong, đem đến trước mặt ông, bản sớ có tên là “Sách lược bình định quốc gia”.
Vương Thủ Nhân nói: “Con đã quyết định xin Thánh thượng ban cho con mấy nghìn binh mã, con xin được đi dẹp loạn, giữ vững ổn định cho quốc gia, thảo phạt quân Tác Ta”.
Đây chính là tấu chương của Vương Thủ Nhân thỉnh cầu cha thay cậu dâng tấu tới Thánh thượng. Nghe được dự tính đó của Vương Thủ Nhân, Vương Hoa phải đối mặt với một tình huống đau đầu khó xử.
Đính hôn từ nhỏ
Nghĩ tới nghĩ lui, Vương Hoa nghĩ con trai cũng lớn rồi, đã đến lúc tìm một người đến “quản lý” cậu. Thì ra lúc Vương Thủ Nhân 6 tuổi, gia đình đã định ra một hôn sự cho cậu. Vương Hoa có một người bạn tên là Gia Dưỡng Hòa.
Nhiều năm trước Gia Dưỡng Hòa đến Dư Diêu tỉnh Triết Giang để thăm thú. Có bạn từ xa đến, Vương Hoa nhiệt tình tiếp đãi. Hai người uống rượu nói chuyện vui vẻ.
Tục ngữ có câu nói: Tri kỷ gặp nhau, ngàn ly còn ít. Hai người bình thường không uống nhiều rượu. Nhưng hai người bạn cũ thân thiết gặp nhau khó tránh uống nhiều một chút.
Gia Dưỡng Hòa thấy Vương Thủ Nhân, con trai sáu tuổi của Vương Hoa thông minh lanh lợi, vẻ ngoài đáng yêu, là một tài năng có thể dạy dỗ được. Trong lúc còn đang say rượu, Gia Dưỡng Hòa liền muốn cho con gái của mình đính hôn với Vương Thủ Nhân.
Lúc đó, sự khác biệt của hai gia đình còn rất lớn. Gia Dưỡng Hòa là tiến sĩ, đang nhận chức Tham nghị Bố chính ở Giang Tây. Mặc dù Vương Hoa cũng là một gia đình lớn, nhưng khi đó Vương Hoa chưa đỗ tiến sĩ, vẫn còn là một thường dân áo vải. Nhưng Gia Dưỡng Hòa không để ý đến những điều này, rất nhanh hai nhà đã định xong hôn sự.
Sau này, Vương Hoa đỗ trạng nguyên, được vào Hàn lâm viện, làm quan ở kinh thành, hằng ngày ở bên cạnh Hoàng đế giảng kinh luận đạo. Con đường làm quan thuận lợi hanh thông. Đó gọi là “Thời thế lúc thế này, lúc lại thế khác”.
Nhìn từ địa vị chính trị, có thể nói rằng, lúc này Gia Dưỡng Hòa đang trèo cao. Ông không biết Vương Hoa có đồng ý cho con trai Vương Thủ Nhân lấy con gái của mình không? Nhìn con gái mỗi ngày một lớn, trong lòng Gia Dưỡng Hòa vẫn luôn lo lắng về điều này.
Tân lang đi đâu rồi?
Vào năm Hoằng Trị thứ nhất (năm 1488), khi đó Vương Thủ Nhân đã 17 tuổi rồi, cũng đã đến tuổi thành gia lập thất. Vương Hoa quyết định cho Vương Thủ Nhân nhanh chóng kết hôn. Ông nghĩ rằng, không biết chừng kết hôn có thể khiến Vương Thủ Nhân thay đổi.
Khi thành gia lập thất, người ta cũng trưởng thành hơn, người có gia đình suy nghĩ sẽ chín chắn lên nhiều, suy xét mọi việc cũng sẽ chu toàn hơn, tiện thể để con dâu thay mình dạy bảo đứa con không có khuôn phép kia.
Thế là Vương Hoa chủ động liên lạc với người bạn cũ Gia Dưỡng Hòa để thực hiện hôn ước. Gia Dưỡng Hòa nghe được tin liền vô cùng vui mừng, tảng đá đè nặng trong lòng bấy lâu nay cuối cùng cũng được nhấc đi. Trong lòng Gia Dưỡng Hòa nghĩ, quả nhiên Vương Hoa nói được làm được, có phong thái của bậc quân tử. Gia Dưỡng Hòa chóng trả lời rằng: “Con rể Vương Thủ Nhân chỉ cần đến Nam Xương để kết hôn. Ngài cứ yên tâm, mọi việc đã có tôi lo liệu”.
Thế là Vương Thủ Nhân từ biệt Vương Hoa, một mình đến Nam Xương để kết hôn với con gái họ Gia. Ngày kết hôn, quan khách đông đủ, vô cùng náo nhiệt. Mọi việc đều đã được sắp xếp xong cả rồi, chỉ đợi tân lang, tân lương bái thiên địa rồi vào động phòng. Kết quả là một chuyện không ngờ đến lại xảy ra, không thấy tân lang đâu cả.
Điều này làm Gia Dưỡng Hòa rất sốt ruột, nếu Vương Thủ Nhân xảy ra mệnh hệ gì, làm sao giải thích với con gái, làm sao giải thích với người bạn cũ Vương Hoa. Thế là Gia Dưỡng Hòa nhanh chóng sai tất cả mọi người dừng hết những việc đang làm để tìm kiếm Vương Thủ Nhân.
Thiết Trụ cung
Ngày thành hôn, lấy được vợ đẹp, chuẩn bị cho đêm động phòng hoa chúc, một trong bốn niềm vui lớn trong đời người, Vương Thủ Nhân đã chạy đi đâu?
Thì ra mấy ngày này, Vương Thủ Nhân ở nhà họ Gia, cảm thấy có chút phiền muộn, liền muốn ra ngoài đi dạo giải sầu. Anh không biết đường đi, nên cứ tiến về phía trước, rẽ qua vài khúc cua, phát hiện mình đã đến trước một Đạo quán. Anh chỉ thấy Đạo quán có ba chữ mạ vàng “Thiết Trụ cung”, viết theo lối chữ Triện.
Thiết Trụ cung là một trong những danh thắng ở Nam Xương. Theo “Minh nhất thống chí” chép rằng, trước Thiết Trụ cung có một cái giếng. Nước trong giếng đen huyền, sâu không thể đo lường được và thông với sông Trường Giang. Vào thời Đông Tấn, trên sông Trường Giang có một con giao long hung ác. Con giao long này thường xuyên xuất hiện thông qua miệng giếng để làm hại người dân ở Nam Xương.
Tinh Dương lệnh cho Hứa Tốn cầm kiếm chém chết con giao long kia, đồng thời tạo ra một trụ sắt lớn để trấn nhiếp giao long. Từ đó Nam Xương mới được yên bình. Người đời sau để tưởng nhớ Hứa Tốn đã xây dựng nên Thiết Trụ cung này.
Vương Thủ Nhân vừa bước vào đại điện đã gặp một Đạo sĩ tóc bạc phơ nhưng mặt vẫn còn trẻ, đang ngồi ngồi thiền ở đó. Vương Thủ Nhân liền tiến tới bắt chuyện với vị Đạo sĩ: “Xin hỏi quê nhà của Đạo trưởng ở đâu?”
Lão đạo sĩ đáp: “Bần Đạo là người nước Thục, vì đợi một người đồng Đạo mà chờ ở đây”.
“Vãn bối thấy Đạo trưởng tóc đã bạc nhưng khuôn mặt vẫn còn trẻ, xin hỏi tuổi của Đạo trưởng và tên hiệu của ngài?”
Đạo sĩ nói rằng: “Bần Đạo đến nay đã sống được 96 năm, vẫn luôn vân du tứ phương không có tên hiệu. Người đời thấy ta lúc nào cũng tĩnh tọa, liền gọi bần Đạo là Vô Vi Đạo trưởng”.
Vô Vi Đạo trưởng thấy Vương Thủ Nhân thân thể yếu nhược, bèn giảng cho anh thuật dưỡng sinh. Hai người nói chuyện với nhau, tâm đầu ý hợp, bỗng chốc đã nói chuyện cả đêm.
Ngày hôm sau, Đạo sĩ đột nhiên hỏi Vương Thủ Nhân: “Công tử không phải là người ở đây, vậy công tử đến Nam Xương làm gì?”
Câu hỏi này làm cho Vương Thủ Nhân chợt định thần lại: “Cảm ơn ngài nhắc nhở vãn bối, vãn bối từ xa đến đây là để kết hôn. Việc này làm sao mà vãn bối lại quên mất”.
Đạo sĩ nghe thấy vội vàng nói: “Hôm nay chúng ta nói chuyện đến đây thôi, công tử hãy mau chóng trở về để kết hôn. Hai chúng ta nếu có duyên, 20 năm sau sẽ còn gặp lại”.
Danh Nho Lâu Lượng
Vương Thủ Nhân trở về kết hôn với con gái nhà họ Gia. Anh sống ở Nam Xương khoảng một năm. Năm sau đó (năm 1489), Vương Thủ Nhân đã 18 tuổi, anh mang theo vợ Gia thị ngồi thuyền từ Nam Xương trở quê nhà ở Diêu Dư tỉnh Chiết Giang.
Trên đường đi ngang qua Quảng Tín (nay thuộc Thượng Nhiêu tỉnh Giang Tây), anh nghe nói ở đây có một vị đại Nho lý học tên là Lâu Lượng, liền lên bờ để thăm hỏi.
Lâu Lượng (1422 – 1291) là một nhà Lý học nổi tiếng thời nhà Minh. Ở tuổi thiếu niên, Lâu Lượng đã có chí trở thành bậc Thánh về học vấn nên ông học hỏi ở khắp nơi. Tuy rằng học vấn của Lâu Lượng rất cao nhưng ông vốn không thích công danh. Chỉ có điều Lâu Lượng bị cha thúc ép nhiều lần nên vào thời Thiên Thuận Minh Anh Tông (năm 1463), Lâu Lượng quyết định vào kinh tham gia kì thi tiến sĩ.
Không ngờ khi Lâu Lượng ngồi thuyền gặp phải gió lớn, gió mạnh thổi ngược chiều như vậy, thuyền không cách nào đi được. Ông liền lấy cớ này dứt khoát quay thuyền trở về.
Người nhà vừa nghe xong chuyện đã cảm thấy sốt ruột, không phải chỉ là gặp chút gió thôi sao? Đợi gió ngừng rồi đi chẳng phải được rồi sao? Làm sao cả cuộc thi cũng chưa tham gia mà đã trở về nhà?
Không ngờ Lâu Lượng liền khua tay: “Mọi người hãy bình tĩnh, để con giải thích. Con thấy kỳ thi năm nay có lẽ là ý Trời không để con đi. Nếu như cố chấp đi thi, có thể không chỉ không thi đỗ mà còn mắc tai họa. Để đề phòng ngộ nhỡ xảy ra chuyện bất trắc, nên con đi giữa đường đã phải trở về”.
Mọi người trong nhà nghe xong đều tức giận, trong tâm nghĩ rằng, Lâu Lượng chỉ vì không muốn tham gia kỳ thì nên bịa chuyện. Cả nhà hoàn toàn không tin lời ông. Nhưng rất nhanh sau đó, từ Nam Kinh truyền đến tin tức, trong lần thi này, trường thi đột nhiên xảy ra hỏa hoạn lớn, rất nhiều thí sinh bị chết cháy. Khi đó mọi người mới bội phục Lâu Lượng, nói ông có tài tiên tri. Còn Lâu Lượng lại cho rằng đó là vì ông tuân theo Lý học.
Có thể thấy rằng học thức của ông uyên bác, tính tình trầm tĩnh thâm sâu, đã đạt đến cảnh giới rất cao. Cuộc thi Hội lần đó, bởi vì trường thi bị thiêu hủy nên sẽ được cử hành vào tháng tám. Cuộc thi Đình cũng được chuyển đến tháng ba năm sau. Lần này Lâu Lượng lại đi thi, quả nhiên thuận lợi đỗ tiến sĩ.
Khi Vương Thủ Nhân đến bái kiến, Lâu Lượng năm đó 68 tuổi, còn Vương Thủ Nhân chỉ mới 18 tuổi. Hai người tuy tuổi tác khác biệt rất nhiều, nhưng gặp nhau lại như người quen cũ, giống như một đôi bạn tri kỷ nhiều năm. Lâu Lượng liền đem hết những gì trong đời mình học được, như kiến thức về Tống Nho, dạy cho Vương Thủ Nhân từ nguồn cội.
Lâu Lượng nói với Vương Thủ Nhân rằng, Thánh nhân cần phải học mới đạt được. Từ đó Vương Thủ Nhân hiểu được rằng, để trở thành Thánh hiền thì việc đầu tiên cần phải hiểu Thánh hiền, do vậy cần phải nghiêm túc đọc sách Thánh hiền. Thế là anh liền thay đổi từ trạng thái không thích đọc sách, thích rong chơi nhàn hạ, chuyển thành ngày đêm đọc sách Thánh hiền, anh cũng hối hận về những hành vi lúc trước.
Vương Thúc Nhân hiểu rằng, muốn làm Thánh hiền thì không chỉ dựa vào nhiệt huyết mà còn cần tự mình trải nghiệm, làm từ những việc nhỏ, tích từng bước chân nhỏ cho đến ngàn dặm, nếu không những thứ như lý tưởng cũng chỉ là suy nghĩ viển vông.
Dưới sự hướng dẫn của Lưu Lượng, Vương Thúc Nhân đã hiểu được Thánh nhân cần phải học mới có thể làm được. Lưu Lượng trở thành người khai sáng cho con đường trở thành Thánh hiền của ông. Sau này dựa theo lý giải từ Lý học truy nguyên của Chu tử, Vương Thủ Nhân bắt đầu thực hiện “cách cây trúc” (tìm cái lý của cây trúc) một cách hệ thống, và nghiên cứu tìm tòi thảo luận, cuối cùng trở thành một bậc Thánh hiền.
Theo NTDVN (Đức Nhân)