Blog
Vì sao Võ Tòng dùng biệt hiệu ‘Hành giả’, cuối cùng tự chặt cánh tay, đoạn tuyệt thế duyên, 80 tuổi viên tịch?
Trong truyện Thủy Hử, mỗi khi xuất hiện hào kiệt, đều có thơ văn giới thiệu về danh hiệu và biệt hiệu. Duy nhất nhân vật Võ Tòng khi xuất hiện, phần biệt hiệu luôn bỏ trống.
Thủy Hử mô tả hình tượng Võ Tòng đặc biệt thần vũ, thơ viết:
“Thân hình lẫm liệt, tướng mạo đường đường. Một đôi mắt sáng bắn sao trời, lông mày cong đậm như vẽ sơn. Ngực nở vai rộng, uy phong sức địch vạn người; Lời nói hiên ngang, chí khí cao ngàn trượng. Hùng tâm tráng chí, như sư tử bước xuống mây lay động cả Trời; Gân cốt kiện cường, như Tỳ Khưu khi ngồi làm rung Đất. Như Hàng Ma Chủ trên Thiên Thượng, thật là Thái Tuế Thần chốn nhân gian.”
Đây là hình tượng anh hùng khi Tống Giang nhìn Võ Tòng dưới ánh đèn. “Dưới đèn nhìn mỹ nhân, ngàn năm không lời tả. Nay nhìn hảo hán dưới ánh đèn, thì ngàn năm cũng không có lời nào hơn.”
Để có cuộc sống bình an và hút nhiều tài lộc, hãy tham khảo các vật phẩm phong thủy thủ công của Hòn Ngọc nhé!
Lẵng Tài Lộc Buôn May Bán Đắt
Tháp Tỏi Ngũ Hạt Hút Tài Lộc
Vòng Tỏi May Mắn Chiêu Tài Hút Lộc
Dưới đèn nhìn hảo hán, càng tăng thêm khí phần lẫm liệt, do vậy mà Kim Thánh Thán từng cảm khái thốt lên: “Cho nên người viết truyện kiếm hiệp, đều viết dưới ánh đèn.”
Võ Tòng say rượu đánh hổ núi Cảnh Dương, trận đánh ấy long trời lở đất, đã trừ được hại lớn cho bách tính. Tri huyện Dương Cốc thấy ông trung hậu nhân đức, liền mời ông làm Đô Đầu bộ binh. Cũng tại nơi này, vào một ngày nhàn nhã vô sự, Võ Tòng đi dạo trên đường thì tình cờ gặp lại anh trai mình là Võ Đại Lang.
Tuy là hai anh em ruột, nhưng hai người tướng mạo khác xa nhau. Võ Đại Lang thấp lùn, cao chưa đầy 5 thước (cao khoảng gần 1.4 m), mặt trông thô lậu, đầu não trì độn, người huyện Thanh Hà đặt cho ông một hỗn danh là: “Tam thốn đinh cốc thụ bì” (Đinh ba tấc đóng vào vỏ cây).
Võ Tòng thân cao 8 thước (khoảng 2 m), tướng mạo đường đường, toàn thân như chứa khí lực ngàn cân.
Võ Tòng thân thiết với anh như cha vậy, Kim Thánh Thán có bình: “Đây là tính khí của bậc hào kiệt, thực vượt trên người thường.”
Võ Tòng ở huyện ấy hay uống rượu, say rồi đánh lộn, nên thường bị báo quan. Võ Đại Lang nghe lời đi theo, thường thay Võ Tòng mà chịu khổ chịu tội. “Hai anh em, Võ Đại yêu thương em như con, Võ Tòng quý anh như cha. Hai người mỗi người một tính.” Đại Lang si ngốc nhưng cực kỳ yêu thương em, nhà không còn cha, nên ông chăm sóc Võ Tòng như con, ngay Kim Thánh Thán cũng khen ngợi: “Đó thực là người có thiên tính!”
Võ Đại Lang sống ở bản quán-huyện Thanh Hà. Tự lấy cô vợ tên là Phan Kim Liên, gia đình thường lục đục.
Hồi 120 truyện Thủy Hử mô tả Phan Thị dâm đãng phong tình, vụng trộm theo trai. Bọn đàn ông phóng túng hám sắc thường đến nhà Võ Đại Lang làm ồn. Võ Đại Lang là người nhu nhược, an phận thủ thường, không chịu được cảnh ấy nên chuyển nhà đưa vợ đến huyện Dương Cốc.
Đại Lang đưa em trai về thăm nhà. Phan Kim Liên thấy Võ Tòng là bậc anh tài, khí thế hùng tráng, chứ không như Võ Đại Lang “ba phần người, bảy phần quỷ”, trong tâm sinh niệm tà dâm, vừa gặp đã luôn miệng gọi “thúc thúc” (chú em) 22 lần.
Phan Thị tuy là chị dâu, nhưng mắt cứ dán vào Võ Tòng. Võ Tòng là người trung hậu nhân nghĩa, là người thẳng tính, cứ cúi đầu uống rượu, không thèm để ý đến cô ta.
Ở hồi 70 này, Kim Thánh Thán có lời bình: “Khá khen cho Võ Tòng. Năm từ ‘bất nhậm ma lý hội’(không thèm để ý đến), đã truyền tải ra toàn bộ tâm tính của bậc thánh hiền, như câu thơ: ‘Thiền tâm dĩ tác triêm nê nhứ, bất trục đông phong thượng hạ cuồng’ (Tâm Thiền đã dứt không vương vấn, chẳng thuận gió đông thổi loạn cuồng).”
Vì lý do hiếu đễ, nên Võ Tòng phải chuyển đến ở nhà anh trai. Phan thị đa tình phong lưu thành tính nên thường tán tỉnh Võ Tòng. Cô ta thường bảo: “Anh hùng nan quá mỹ nhân quan” (anh hùng khó qua cửa ải mỹ nhân), nhưng Võ Tòng là người kiên định chính trực, không để ý đến cô ta.
Thấy ngôn từ mời gọi, mà vẫn bất động tâm, đây là chỗ hơn người của Võ Tòng; không tham luyến nữ sắc, ấy bậc đại trượng phu! Võ Tòng cương chính có lễ tiết, là bậc chính nhân quân tử, trong tâm vô mỹ nhân mỹ sắc, thì cái gọi là “ải mỹ nhân” cũng lặng lẽ tiêu tan.
Sau khi Phan thị gọi Võ Tòng tới 39 lần ‘thúc thúc’ (chú em), đột nhiên lại gọi là ‘anh’, bày trăm cách mời dụ Võ Tòng cùng cạn chén. Võ Tòng cả giận, diện lộ thần uy, chộp lấy chén rượu đổ thẳng xuống đất. Ông phẫn nộ nói: “Võ nhị ta là nam tử hán đầu đội trời chân đạp đất, không phải lũ chó lợn bại hoại phong tục, chôn vùi nhân luân! Chị dâu hãy dừng ngay trò vô liêm sỉ này lại! nếu còn lả lơi, Võ nhị ta còn có thể nhận ra chị dâu, nhưng nắm đấm này nó không nhận ra đâu!”
“Quân tử tu Xuân Thu, mạc tiên vu chính danh phận” (Quân tử tu theo kinh Xuân Thu, trước nhất phải chính danh phận). Võ Tòng xưng hô Phan thị là chị dâu (tẩu tẩu), ý để chính cho danh phận, ngăn tà niệm. Nhưng Phan thị bị nhục mà hóa giận, vu cho Võ Tòng chọc ghẹo cô ta, rồi chửi mắng Võ Tòng. Võ Tòng chỉ im lặng, suy tư nửa ngày rồi đành rời khỏi nhà anh trai. Về sau, Võ Tòng đi công cán Đông Kinh, xa rời huyện Dương Cốc.
Phan thị lôi kéo Võ Tòng bất thành, chuyển sang gian dâm với Tây Môn Khánh, đồng thời hạ độc hại chết Võ Đại Lang. Võ Tòng từ Đông Kinh quay về nhận được tin dữ. Ông chẳng biết kêu ai, đang cơn tức giận mà ra tay hạ sát cả gian phu dâm phụ. “Vẫn biết do giận dữ giết kẻ gian dâm, nhưng không làm kẻ vi phạm điều luật.”
Võ Tòng hành sự đường hoàng, báo thù cho anh xong, liên tới quan phủ tự thú. Quan phủ cho thích lên mặt ông hai hàng “Kim ấn”, rồi phán định đưa đi Mạnh Châu sung quân.
Trong cuộc sống giao du, Võ Tòng đã đắc tội với một ác bá địa phương tên là Tưởng Môn Thần. Hắn ta liên kết với Đô giám Mạnh Châu là Trương Mông tính kế vu oan cho Võ Tòng, đồng thời ám sát ông, kết quả lại bị Võ Tòng giết chết. Nguyên từ một anh hùng đả hổ, thành tín hiếu đễ, bảo vệ gia đình cùng nhân luân, nhưng do thế sự vô thường, vận mệnh trái ngang nên cuối cùng bị bức lên Lương Sơn. Trong lòng luôn chứa nguyện vọng báo đáp triều đình, nhưng cũng đành xuôi theo dòng mệnh.
Khi trước, Võ Tòng kết nghĩa anh em với Trương Thanh. Lúc Võ Tòng gặp nạn, Trương Thanh thu xếp cho Võ Tòng nơi ẩn náu ở chùa Bảo Châu, Thanh Châu, núi Nhị Long, để ông nhập hội với Lỗ Trí Thâm và Dương Chí.
Để che đi dấu kim ấn trên trán, Tôn Nhị nương đã hóa trang cho Võ Tòng, đội lên đầu một chiếc vòng sắt, cắt tóc ngắn, mặc tăng phục. Trong trang phục của một hành giả, khiến Trương Thanh, Tôn Nhị nương cùng nói: “Đây chắc là an bài của kiếp trước!”
Do duyên cớ này mà Võ Tòng có biệt hiệu “Hành Giả” (người tu hành). Thi văn viết:
“Đả hổ tùng lai hữu Lý Trung, Võ Tòng xước hiệu thượng huyền không. Hạnh hữu ‘Dạ Xoa’ năng thuyết pháp, đốn giáo hành giả hiển thần thông.”
(Xưa nay đánh hổ còn có Lý Trung, nhưng biệt hiệu của Võ Tòng thì chưa ai có. May có Dạ Xoa giảng giải, để Hành Giả triển hiện thần thông.)
Dạ Xoa là biệt danh của Tôn Nhị Nương. Khi ấy thực ra Võ Tòng không phải là người xuất gia chân chính. Nếu ông bắt gặp người xuất gia mà phạm tà dâm, thì cũng ra tay thô bạo chứ không từ bi khuyên giải. Võ Tòng đi dạo đêm trăng, ở đỉnh núi Ngô Công trông thấy một đạo nhân đang ôm ấp cười đùa với nữ nhân, ông liền nổi giận rút đao ngay.
Võ Tòng hóa trang thành Hành Giả (người tu hành), để che mắt quan binh, tránh bị lùng bắt. Trong những hồi sau của câu chuyện, ‘Võ Hành Giả’ trở thành danh xưng của ông. Từ đây, Võ Tòng chính thức có biệt hiệu.
Trong quần hùng Lương Sơn, chỉ duy nhất Võ Tòng được Kim Thánh Thán tán tụng là ’Thiên nhân’ (người Trời), “Võ Tòng là người Trời, nên có sự phóng khoáng của Lỗ Trí Thâm, sự sắc bén của Lâm Xung, sự chính trực của Dương Trí, sự hiền lương của Sài Tiến, sự nhanh nhẹn của Nguyễn Thất, sự chân thực của Lý Quỳ, sự mẫn tiệp của Ngô Dụng, sự cao nhã của Hoa Vinh, sự rộng lớn của Lư Tuấn Nghĩa, sự cung kính của Thạch Tú. Viết là người đệ nhất, chẳng phải sao?”.
Sau này các nghĩa sĩ Lương Sơn Bạc tiếp nhận triều đình chiêu an, khi Võ Tòng cùng đại quân thảo phạt Phương Lạp, bị Huyền Thiên Hỗn Nguyên kiếm của Bao Đạo Ất chém trúng vai trái. May có Lỗ Trí Thâm dùng thiền trượng ngự địch, cứu được ông. Sau khi Võ Tòng tỉnh dậy, thấy cánh tay trái rụng rời gần đứt, liền rút đao cắt rời.
Võ Tòng mất cánh tay, chỗ này phải chăng ngụ ý như Nhị tổ Huệ Khả của Thiền tông đã tự chặt tay cầu Pháp, “Đoạn kỳ ma trảo, thành kỳ chính quả” (Chặt đứt móng vuốt của ma, để thành tựu chính quả)? Nhát cắt ấy, đã cắt lìa cả quá khứ gió mưa của Võ Tòng, cũng đoạn dứt mọi thế duyên bám víu. Tất cả dĩ vãng bi hùng đều theo cánh tay trái ấy mà đi vào tịch mịch.
Sau khi đại quân Lương Sơn chinh thảo Phương Lạp, giương cờ chiến thắng, tướng sĩ được nghỉ ngơi ở chùa Lục Hòa. Tại chùa này, người xuất thế, kẻ nhập thế chia tay, đường ai nấy đi. Võ Tòng ban đầu giả mạo làm Hành Giả, cải trang thành Đầu Đà, thuần túy chỉ là để trốn tai tránh họa.
Nhưng sau khi nhập bước giang hồ, dần thấy rõ hồng trần hiểm ác. Vị anh hùng ứng với ‘Thiên Thương Tinh’ (sao Thiên Thương), sau khi kết bằng hữu chí thân với Hoa hòa thượng Lỗ Trí thâm, tâm cảnh đã dần dần cải biến.
Sau khi ‘Thiên Cô Tinh’ Lỗ Trí Thâm viên tịch ở chùa Lục Hòa, Võ Tòng mang thân tàn không muốn về kinh hầu hạ triều đình, để rồi lại bị cuốn vào hồng trần cuồn cuộn. Ông gặp Tống Giang lần cuối tại chùa, từ đây chính thức xuất gia tu hành ở chùa Lục Hòa, năm 80 tuổi ông viên tịch.
Theo NTDVN